Thứ Năm, 29 tháng 3, 2012

Thi thiên 51: "Đức Chúa Trời Sẽ Tha Thứ Bao Nhiêu Tội?"


Đức Chúa Trời Sẽ Tha Thứ Bao Nhiêu Tội?
– Thi thiên 51
Đúng ra, đây là một việc rất kỳ cục.
Nhưng giờ đây mọi việc dường như là suông sẻ hết. Rốt lại, ai có thể bắt lỗi một vị vua về việc chìu theo mọi suy tưởng của ông ấy chứ? Đấy là những gì các vì vua hay làm. Một tối kia, bạn ra ngoài để đi dạo, bạn nhìn thấy một phụ nữ xinh đẹp, bạn thèm muốn nàng, bạn cho vời nàng đến, nàng đến với bạn. Chỉ đơn giản như thế thôi! Các vì vua hay làm ra loại việc ấy kể từ khi thời gian bắt đầu.
Bất cứ gì nhà vua muốn, nhà vua đều nhận được hết.
Đấy là lý do tại sao họ gọi ông ta là vua. Và trong thời đó, chuyện ấy dường như chẳng ai xem là một việc lớn lao cả. Việc đó vẫn còn xảy ra hôm nay. Giữa vòng chúng ta ai thực sự kinh ngạc khi thấy vị tổng thống hay thủ tướng có cô bạn gái ở bên cạnh chứ? Việc ấy chẳng xảy ra suốt cõi thời gian, song nó đang xảy ra, và người ta nghe nói về việc ấy rồi rùng vai hoặc họ cười biếm một chút rồi biến nó thành truyện vui hoặc họ không thích việc ấy nhưng họ cứ giữ việc ấy trong lòng mình. Không phải để biện minh mọi việc, bạn thấy đấy, chỉ để lưu ý rằng đây là phương thức mà mọi việc đang diễn ra.
Nhà vua cảm thấy mọi việc sau cùng giống như đã được an bài hết rồi. Có nan đề với chồng của người phụ nữ nầy. Tránh né anh ta thì chẳng phải là một việc dễ dàng đâu. Anh ta là loại chiến binh trung thành của hoàng gia, anh ta chẳng dễ bị lừa đâu. Vì vậy, nhà vua đã thủ tiêu anh ta trên chiến trường. Rất là phức tạp, nhưng người chồng đã kết thúc giống như một vị anh hùng trong cái chết của mình. Khi ấy, nhà vua cảm thấy thoải mái khi đem người đàn bà kia về làm vợ của mình. Vua đã làm như thế.
Thế rồi, tin tức rất là vui vẻ đã đến, người phụ nữ kia đã có thai. Mọi sự đều suông sẻ hết với việc thế gian.
Thế nhưng ở nhiều khu vực khác người ta đồn rằng: “Nhưng điều Đa-vít đã làm đó không đẹp lòng Đức Giê-hô-va” (II Samuên 11:27). Nhà vua sắp sửa tiếp thu với sự khó nhọc rằng Đức Chúa Trời sẽ không bị chế giễu và “phải biết rằng tội chắc sẽ đổ lại trên các ngươi" (Dân số ký 32:23).
Nathan, người của Đức Chúa Trời, bước vào. “Vua là người đó!”
Ông kể cho nhà vua nghe một câu chuyện ngắn nói về người nhà giàu kia với nhiều con chiên đã tước của kẻ nghèo nọ con chiên con duy nhứt mà gia đình ông ta đang có. Phải xử như thế nào đối với người nhà giàu đã hành động không chút thương xót kia chứ? “Hắn phải chết”, nhà vua tuyên bố trong giận dữ. Thế rồi người của Đức Chúa Trời ban bố ra sứ điệp ngày.
“Vua là người đó!”
Trong khoảng khắc, thời điểm ấy như tim thôi ngừng đập vậy, nhà vua đã nhìn biết sự thật, vua biết mọi điều Nathan đã nói, vua biết rõ ông là người giàu kia, là người đã lừa đảo kẻ nghèo nọ. Nhà vua đã nhìn biết! Lời của Giêhôva đến một cách mau chóng:
“Ngươi đã có mọi sự mà ta ban bố cho”.
"Ta đã lập ngươi làm vua”.
"Nếu chưa đủ, ta sẽ ban cho ngươi thêm nữa”.
"Sao ngươi xem khinh Lời ta chứ?”
“Ngươi dám lấy vợ của người nầy”.
"Ngươi đã giết hắn”.
“Sẽ chẳng có gì khác hơn là rối rắm cho ngươi từ ngày nầy trở đi”.
"Gia đình ngươi sẽ đau khổ vì cớ tội lỗi của ngươi”.
Thế rồi những tin xấu xảy đến.
“Con trai ngươi sẽ chết”.
Nhà vua bật khóc rồi kiêng ăn cầu nguyện, nhưng đứa trẻ đã chết.
Thế rồi thời điểm đến cho nhà vua phải việc việc khó nhọc nhất mà bất cứ ai cũng có thể làm, là nhìn vào gương rồi nói: “Ta đã phạm tội” (I have sinned). Có thể đấy là ba từ khó nói nhất trong tiếng Anh. Chẳng có ai muốn thốt ra câu: “Ta đã phạm tội” (I have sinned). Thay vì nói như thế, chúng ta muốn làm việc gì đó khác hơn. Nhưng chẳng làm sao yên lòng được cho tới chừng chúng ta nhìn nhận mình đã phạm sai lầm là dường nào.
Qua hai hàng nước mắt và cảm giác tội lỗi sâu kín ấy, tự quở trách về sự dại dột quá mấu của mình, sau cùng nhận ra mình đã phạm sai lầm là dường nào, Vua David đã ngồi xuống rồi viết ra bài thơ mà chúng ta gọi là Thi thiên 51. Ba ngàn năm sau, chúng ta trở lại với nó thật nhiều lần vì nó cho chúng ta biết như thế nào là trở lại với Đức Chúa Trời khi chúng ta phạm tội.
Trở lại với Đức Chúa Trời là dây an toàn cho nhiều thế hệ các tín đồ, trước tiên giữa vòng người Do thái nào đã học biết, thuật lại rồi ca hát Thi thiên ấy, tiếp đến giữa vòng Cơ đốc nhân nào đã sử dụng Thi thiên đó như bài thơ riêng của mình vậy. Lời lẽ phổ thông đến nỗi chúng thuộc về bất cứ ai có tấm lòng tan vỡ vì cớ tội lỗi. Nếu bạn gạt bỏ nó, đây là một lời đến từ Đức Chúa Trời dành cho bạn. Nếu bạn nhìn vào đống đổ nát của chính đời sống bạn, nhìn biết đầy đủ rằng bạn đã phạm lỗi trong nhiều sự lựa chọn dại dột, nếu bạn từng thất vọng trong việc tìm kiếm ơn tha thứ, chúng ta hãy cùng nhau hành trình qua Thi thiên 51 rồi xem coi Thi thiên ấy nói gì với chúng ta ngày nay.
Có ba phần trong lời cầu nguyện quan trọng nầy. Thứ nhứt, David xưng ra tội lỗi mình (các câu 1-6). Tiếp đến, ông cầu xin sự thanh tẩy (các câu 7-12). Rồi ông dâng lên lời cầu xin được nên thánh (các câu 13-19).
Xưng tội.
Thanh tẩy.
Được nên thánh.
Warren Wiersbe nói David cầu xin ba việc trong Thi thiên 51:
“Xin tha thứ cho tôi”
"Xin rửa tôi”
"Xin sử dụng tôi”
Nếu tội lỗi của bạn giống như một gánh nặng đè trên vai, thì Thi thiên nầy là dành cho bạn đấy.
Xưng tội
David bắt đầu với Đức Chúa Trời (các câu 1-2). Ông kêu xin ơn thương xót, tình yêu thương, và lòng nhơn từ của Đức Chúa Trời bôi xóa mọi vi phạm và tẩy sạch tội lỗi của ông. Thời điểm bào chữa đã qua rồi. Sẽ chẳng có chỗ để hợp lý hóa cho tội tà dâm và giết người, không thể nói được: “Các vua đều làm thế suốt thôi” hoặc “Tôi rơi vào chỗ yếu đuối một chút thôi mà”. Bao lâu con người đưa ra lời bào chữa, họ không thể được tha thứ vì họ sẽ không sạch được về tội lỗi của họ. Nếu bạn cảm thấy mình cần phải biện minh cho tội lỗi, bạn chưa sẵn sàng để được tha thứ.
Đức Chúa Trời không thương lượng đâu.
Ngài không nói: “Con nít sẽ chỉ là con nít” hay “ta hiểu ngươi yếu đuối là dường nào, vì vậy ta sẽ bỏ qua lần nầy". Nếu tội lỗi muốn được tha thứ, thì phải xưng ra đó là tội gì. Bạn không thể gọi tội lỗi là “yếu đuối” được và mong mỏi Đức Chúa Trời tha thứ cho. Đức Chúa Trời không tha thứ cho sự yếu đuối; Ngài chỉ tha thứ tội lỗi mà thôi. Đấy là lý do tại sao nhà vua chồng chất nhiều từ ngữ khác nhau để nói ra chiều sâu của tội lỗi ông: vi phạm, gian ác, tội lỗi, và sau cùng, “điều ác” (câu 4). Khi nhìn vào chỗ ô uế của tấm lòng mình, ông chẳng thấy có điều chi tốt lành cả, chẳng có điều gì có thể làm giảm đi tội ác quá lớn của mình.
Trong câu 4, David thốt ra một việc rất phi thường:
“Tôi đã phạm tội cùng Chúa, chỉ cùng một mình Chúa thôi, và làm điều ác trước mặt Chúa”.
Há ông chẳng phạm tội nghịch cùng Uri sao, không phải một lần mà là hai lần? Phải.
Há ông không phạm tội nghịch cùng Bátsêba bằng cách cướp nàng khỏi chồng nàng sao? Phải.
Há ông không phạm tội nghịch cùng dân Israel sao? Phải.
Nhưng sau cùng, ông đã phải thưa trình với Đức Chúa Trời! Mọi tội lỗi là phản nghịch chống lại Đấng Toàn Năng. Cho tới chừng nào chúng ta nắm bắt được như thế, cho tới chừng nào chúng ta nhìn thấy và cảm nhận nó, cho tới chừng nào chúng ta xưng nó ra, chúng ta không thể được tha thứ.
Vì vậy, David nói: “Hầu cho Chúa được xưng công bình khi Chúa phán, và được thanh sạch khi Chúa xét đoán” (câu 4b). Khi ấy, ông nói: “Kìa, tôi sanh ra trong sự gian ác, Mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi Kìa, tôi sanh ra trong sự gian ác, Mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi” (câu 5)“Nầy, Chúa muốn sự chân thật nơi bề trong”. Câu nầy nhắc cho tôi nhớ tới bối cảnh nổi tiếng Jack Nicholson trong phim A Few Good Men khi ông nói với Tom Cruise: “Anh muốn biết sự thật ư?” Khi Cruise nói: “Phải, tôi muốn biết”, Nicholson hô lên trong giận dữ: “Anh không thể nắm lấy sự thật được”.
Sự thật có thể khó nắm lấy, đặc biệt là sự thật nói tới chính bản thân chúng ta.
Cách đây mấy năm, tôi đến thăm một nhà tư vấn rất được ơn, ông cung cấp cho tôi một bản tóm tắt nhân cách rồi sau đó gửi mọi kết quả qua mail cho tôi. Kèm theo với những kết quả thử nghiệm là một số giấy tờ mà vị tư vấn đã kê ra. Trên một trang, vị tư vấn đã ghi kèm câu nói nổi tiếng của Chúa Jêsus: “các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi” (Giăng 8:32). Ông đã đổi phần sau rồi cho in như thế nầy: LẼ THẬT SẼ BUÔNG THA BẠN . . . NHƯNG NÓ SẼ LÀM TỔN THƯƠNG BẠN TRƯỚC TIÊN.
Câu ấy làm cho tôi bắt giật mình, và rồi giống như thể có ai đó đã bật lên một ngọn đèn trên đầu tôi. Phải, tất nhiên, câu nói ấy có ý nghĩa rất hay đấy. Trong chớp mắt, tôi nhận ra lý do tại sao hầu hết mọi người đều bối rối nhiều về vấn đề thuộc linh. Không phải vì chúng ta không biết lẽ thật đâu. Chúng ta biết nhiều về lẽ thật y như nó đang chạy trước con ngươi mắt mình. Chúng ta nghe lẽ thật giảng ra ở nhà thờ, trên đài phát thanh, từ bạn bè chúng ta, từ sách báo và các đĩa Cơ đốc, trong thần học viện và các buổi hòa nhạc. Rồi chúng ta tiếp lấy thẳng lẽ thật từ Kinh thánh. Đấy chẳng phải là nan đề của chúng ta. Nếu hết thảy chúng ta chỉ cần nhận biết lẽ thật, hết thảy chúng ta sẽ trở thành ứng viên cho hàng thánh đồ vĩnh viễn thôi.
Không, vấn đề còn sâu sắc hơn thế nữa. Chúng ta biết lẽ thật, nhưng chúng ta không muốn lẽ thật làm tổn thương chúng ta, vì vậy chúng ta phải làm cho nó chệch hướng, bất chấp nó, chối bỏ nó, công kích nó, tranh luận với nó và nói chung tránh né nó với bất cứ phương thức gì chúng ta có thể. Chúng ta khoác lấy cái thuẫn để chúng ta có thể làm chệch hướng những viên đạn lẽ thật. Sau một thời gian ngắn, chúng ta biết cách làm chệch hướng đến nỗi lẽ thật không bao giờ đụng phải chúng ta.
Chúng ta lắng nghe lẽ thật . . . chúng ta biết rõ lẽ thật . . . nhưng chúng ta làm chệch hướng lẽ thật để nó không bao giờ đến gần đủ để làm hại chúng ta. Vì lẽ đó, chúng ta không được buông tha. Chúng ta vẫn còn giận dữ . . . ngoan cố . . . cay đắng . . . tham lam . . . kiêu ngạo . . . đầy dẫy tư dục . . . tư ý . . . phê phán . . . và không tử tế.
Lẽ thật thực sự không hề thay đổi chúng ta vì chúng ta không để cho nó đến gần đủ để làm hại chúng ta. Thành thật là bước đầu tiên nhìn nhận tình trạng thật của bạn.
Khi David kêu xin ơn thương xót của Đức Chúa Trời, ông đã công nhận nguồn gốc thực sự của vấn đề và chỗ sự chữa lành phải bắt đầu. Cho tới chừng nào có “lẽ thật” (từ ngữ muốn nói tới điều gì là “thực tế” ngược lại với việc cáo lỗi, che đậy, và ngăn ngừa mọi sự gì là okay) nơi sâu kín bên trong của linh hồn, bao lâu chúng ta còn dối mình, chúng ta không thể thấy khá hơn, và Đức Chúa Trời không thể dạy chúng ta sự khôn ngoan. Bạn có muốn được buông tha không? Sự ấy có thể xảy ra, nhưng bạn phải để cho lẽ thật làm tổn thương bạn trước tiên.
David đang nói: “Lạy Chúa, tôi biết những gì Ngài mong muốn. Ngài muốn tôi thôi không tham dự vào trò chơi nữa và thôi không bào chữa nữa. Tôi sẵn sàng làm như thế. Không còn bào chữa nữa, không tham dự trò chơi nữa. Tôi đã phạm tội trước mặt Ngài và tôi công nhận như thế”.
Thanh tẩy
Cách đây không lâu, có một người bạn hỏi làm sao chúng ta biết ai đó là một Cơ đốc nhân thật? Đấy luôn luôn là một câu hỏi khó vì con người và hoàn cảnh khác biệt rất lớn, và có khi người ta nhìn khác đi từ một khoảng xa xa hơn là chúng ta đang ở gần. Thi thiên 51 đề nghị một nguyên tắc dường như đúng đắn, ngay cả khi nguyên tắc ấy không được nhiều người xét đến. Cách chúng ta phản ứng khi chúng ta phạm tội tỏ ra sự giải quyết đúng đắn về thực tại hay phi thực tại lời tuyên xưng đức tin của chúng ta. Khi người ta phạm phải một tội nặng nề và đau thương, thắc mắc luôn luôn phát sinh: Làm sao chúng ta biết đâu là sự ăn năn thật chứ? Tôi tin chính Mục sư Spurgeon là người lưu ý rằng chúng ta có thể đem lòng tin cậy vấn đề nầy khi sự ăn năn cũng hiển nhiên y như chính tội lỗi vậy.
Không những David không che giấu tội lỗi mình, và không những ông không thu nhỏ tội lỗi kia, ông nài xin Đức Chúa Trời ban ra ân điển sâu sắc để thanh tẩy ông khỏi vết uế của tội lỗi. Ông muốn Đức Chúa Trời rửa ông sạch từ trong ra ngoài. Vì ông tự mình viết Thi thiên nầy, rõ ràng ông không quan tâm ai biết những gì ông đã làm và ông đang ráng hết sức mình để tìm kiếm ân điển của Đức Chúa Trời.
Thành thực xưng tội là một kinh nghiệm hạ mình. Tôi nhớ lại khi một thánh đồ phạm tội đưa ra lời xưng tội với một nhóm bạn thân kia. Tôi có mặt ở đó quan sát sự việc diễn ra. Người ấy đứng trước hội chúng rồi thốt ra sự việc, với nhiều nước mắt và với đầy đủ chi tiết đặc biệt đưa vấn đề ra trước ánh sáng chẳng để lại chút gì có thể làm tổn thương nhiều người khác. Đáng buồn quá, nghiêm trọng làm sao, và sự xưng tội được thực hiện. Khi sự tuyên xưng xong rồi, có người bắt đầu hát rất tự nhiên bài: “Cầu nguyện chung”, ngay tức khắc có nhiều giọng hát của những người tham dự hòa vào. Vây chung quanh vị thánh đồ biết sám hối kia, họ hoan nghênh người ấy trở lại với ràng.
Khi được tự do khỏi gánh nặng tội lỗi là vấn đề, khi chúng ta không còn bọc đường tội lỗi của chúng ta nữa, khi chúng ta tìm cách hồi phục mối tương giao với Đức Chúa Trời và với dân sự Ngài, khi chúng ta không còn lo lắng về tiếng tăm của mình nữa, khi điều cho Đức Chúa Trời nghĩ là vấn đề hơn những gì người khác suy nghĩ, khi ấy chúng ta sẽ tìm được ơn tha thứ vì sự ăn năn của chúng ta đã dẫn chúng ta về lại với Chúa.
Nếu bạn nhìn vào lời cầu xin mà David đưa ra ở các câu 7-12, bạn có thể thấy rõ con đường phục hồi có 7 chi tiết:
1. Chúng ta cần được thanh tẩy bằng huyết. “Xin hãy lấy chùm kinh giới tẩy sạch tội lỗi tôi, thì tôi sẽ được tinh sạch; Cầu Chúa hãy rửa tôi, thì tôi sẽ nên trắng hơn tuyết" (câu 7). Kinh giới là một cây được dùng trong Lễ Vượt Qua ở Aicập (Xuất Êdíptô ký 12:22). Người Do thái nhúng cây nầy vào trong huyết chiên con rồi bôi trên mày cửa. Khi thiên sứ sự chết nhìn thấy huyết, Ngài “vượt qua” ngôi nhà đó và không có ai ngã chết trong đêm ấy. Đức Chúa Jêsus Christ là Chiên Con Lễ Vượt Qua của chúng ta, huyết của Ngài giờ đây tẩy sạch tội lỗi của chúng ta (I Côrinhtô 5:7; 1 Giăng 1:7). Khi viết về việc nầy, Mục sư Ray Stedman lưu ý rằng có nhiều người lấy làm lạ tại sao Chúa Jêsus lại phải chịu chết vì chúng ta. Thập tự giá của Chúa Jêsus làm phật lòng tri thức của nhiều người, họ ưa thích thứ tôn giáo “không có huyết” hơn. Đây là giải đáp của Stedman:
Tại sao Chúa Jêsus phải chịu chết để tha tội cho chúng ta? Câu trả lời duy nhứt là: Tội lỗi dầm thấm sâu sắc trong chúng ta đến nỗi nó không thể được cứu chữa bằng bất kỳ thứ gì khác hơn là sự chết. Đời sống cũ phải chết. Đức Chúa Trời không thể cải thiện nó. Ngay cả Đức Chúa Trời không thể làm cho nó ra tốt hơn, Ngài không thể rửa hay thanh tẩy nó; Ngài chỉ có thể để cho nó chết đi. David vốn hiểu rõ sự ấy trong lúc nầy. Ông thưa với Đức Chúa Trời: “Nếu Ngài xử lý với dòng sông gian ác khủng khiếp nầy trong tôi, tôi có thể thấy nó phải được làm cho chết đi. Nó phải được chùm kinh giới bôi lên, khi ấy tôi sẽ được sạch”.
2. Chúng ta cần hy vọng mới. “Hãy cho tôi nghe sự vui vẻ mừng rỡ, để các xương cốt mà Chúa đã bẻ gãy được khoái lạc" (câu 8). “Lạy Chúa, tôi bị dìm xuống khá lâu rồi, tôi chẳng thấy chi khác trừ ra bóng tối tăm. Hãy chiếu sự sáng của Ngài vào lòng tôi để tôi có thể hát mừng rỡ thêm một lần nữa".
3. Chúng ta cần phải biết tội lỗi mình đã được tha. "Xin Chúa ngảnh mặt khỏi các tội lỗi tôi, và xóa hết thảy sự gian ác tôi” (câu 9). Được tha chưa phải là đủ. Chúng ta cần phải biết rằng Đức Chúa Trời đã đem tội lỗi xa khỏi chúng ta. Mặt khác, tội lỗi của chúng ta sẽ dấy lên tố cáo chúng ta và một lương tâm phạm tội sẽ giữ chúng ta thức thâu đêm cho xem.
4. Chúng ta cần một tấm lòng thanh sạch. “Đức Chúa Trời ôi! xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch, và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng” (câu 10). Từ ngữ “dựng nên” có nghĩa là David biết ông không thể làm thay đổi được chính mình. Đây là chỗ tận cùng của sự tự cải cách. Nhà vua biết rõ trừ phi Đức Chúa Trời làm cho ông được sạch, ông sẽ chẳng tự mình làm được việc đó. Không những thế, ông còn cầu xin một thần linh “ngay thẳng” sẽ giúp cho ông đứng vững chống lại sự cám dỗ trong tương lai nữa.
5. Chúng ta cần sự phục hồi bởi quyền phép của Đức Thánh Linh. “Xin chớ từ bỏ tôi khỏi trước mặt Chúa, cũng đừng cất khỏi tôi Thánh Linh Chúa” (câu 11). Mục sư Spurgeon nói một Cơ đốc nhân chơn thật chỉ có thể cầu nguyện giống như lời cầu nguyện nầy. Một người chưa tin Chúa sẽ không quan tâm về việc bị trục xuất ra khỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời vì họ chưa bao giờ sống gần gũi với Đức Chúa Trời trong chỗ thứ nhứt. Một người chưa được cứu sẽ không quan tâm về việc đánh mất Đức Thánh Linh mà họ chưa hề có bao giờ. Người bất kỉnh trốn tránh sự hiện diện của Đức Chúa Trời và tránh né Đức Thánh Linh. Chỉ có con cái của Đức Chúa Trời mới cảm nhận được nổi đau kỷ luật của Chúa. Người nào đã ở trong ánh mặt trời tình yêu của Ngài đều rùng mình trong bóng tối giá lạnh khi Ngài không đẹp lòng.
6. Chúng ta cần tìm lại niềm vui mừng trong ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời. “Xin hãy ban lại cho tôi sự vui vẻ về sự cứu rỗi của Chúa" (câu 12a). Từng tội lỗi một, dù lớn hay nhỏ, làm phân rẽ chúng ta ra khỏi mối tương giao phước hạnh với Đức Chúa Trời. Có khả năng được cứu, nhưng tội nghiệp vì chúng ta chưa xử lý đúng với tội lỗi của chúng ta. David nói: “Lạy Chúa, tôi mệt mõi tội nghiệp về lối sống nghèo ngặt của tôi. Xin hãy mở ra dòng suối vui mừng trong lòng tôi một lần nữa đi”.
7. Chúng ta cần một sự khao khát mới ở bên trong. "Dùng thần linh sẵn lòng mà nâng đỡ tôi” (câu 12b). David muốn nói: “Xin khiến tôi được vui mừng để vâng theo Ngài trong tương lai”. Ông nài xin Đức Chúa Trời thực thi một cuộc “giải phẫu tim thiêng liêng” để ông không còn trôi lạc ra khỏi đường ngay nữa.
Con đường có 7 chi tiết là con đường thẳng cho từng tội nhân nào muốn tìm sự hòa thuận lại với Đức Chúa Trời. Hãy khởi sự với huyết của Chúa Jêsus thì bạn sẽ kết thúc với hy vọng mới, vui mừng mới, và một lòng khao khát mới muốn phục vụ Chúa.
Sự nên thánh
Sự phục vụ mới
“Bấy giờ tôi sẽ dạy đường lối Chúa cho kẻ vi phạm, và kẻ có tội sẽ trở về cùng Chúa” (câu 13).
Khi David xem lại các bài học mà ông đã học được theo sau vụ việc bê bối với Bátsêba, ông hứa với Đức Chúa Trời rằng ông sẽ dùng kinh nghiệm của mình để khiến cho hạng tội nhân trở lại với Chúa. Cho tới chừng nào chúng ta kinh nghiệm riêng về ân điển tha thứ của Đức Chúa Trời, Tin Lành đối với chúng ta chẳng khác gì một sứ điệp trên lý thuyết mà thôi. Nhưng hãy để cho một người công bố thể nào Đức Chúa Trời đã giải cứu người trong thời điểm thất vọng bất lực, hãy để cho người nói năng công khai về việc người thất bại trong việc hòa thuận lại với Đức Chúa Trời, hãy để cho người nói ra cách thức Chúa Jêsus đã tìm gặp người, vực người dậy, tha tội cho người, ban cho người một đời sống mới, rồi đặt bước chơn người theo một hướng mới. Hãy để cho người chia sẻ tận đáy lòng mình và người ta sẽ lắng nghe chẳng có bằng chứng nào như sự thực nói tới một đời sống được thay đổi. Hạng tội nhân trở lại đạo trở thành nhà truyền đạo lỗi lạc nhất vì họ biết sự thực về những gì họ đang nói.
Sự thờ phượng mới
“Chúa ơn, xin mở môi tôi, rồi miệng tôi sẽ truyền ra sự ngợi khen Chúa” (câu 15).
David không bao giờ quên tội lỗi của ông hay ân điển đã tìm gặp ông ở giữa nổi vô vọng của ông. Môi miệng ông bị đóng kín cho tới chừng ân điển như một dòng sông tuôn ào xuống từ thiên đàng. Khi ấy ông sẽ chẳng còn im lặng nữa. Hạng người được tha thứ thực sự ưa thuật cho người khác biết mọi điều mà Đức Chúa Trời đã làm cho họ.
Tri thức mới
“Vì Chúa không ưa thích của lễ, bằng vậy, tôi chắc đã dâng; Của lễ thiêu cũng không đẹp lòng Chúa: Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi! lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (các câu 16-17).
Hai câu nầy trục xuất đời đời quan niệm sai lầm cho rằng Đức Chúa Trời chỉ muốn có tôn giáo. Thời xưa, đó là huyết của bò đực và dê đực. Thời nay, chính sự nhóm lại ở nhà thờ và tiền bạc trên cái đĩa dâng hiến. Bạn có thể đi nhà thờ cả ngàn ngày Chúa nhật, ngồi trên một hàng ghế, và việc ấy sẽ chẳng dời đi vết uế của một tội. David biết rõ rằng không một con bò đực nào được dâng lên bàn thờ có thể chuộc được tội giết người hay tà dâm. Cái điều Đức Chúa Trời mong muốn, ấy là tâm thần đau thương và thống hối. Vì thế, ông sẽ chẳng xây lại.
Đề tựa bài giảng của tôi đưa ra một thắc mắc mà giờ đây tôi phải sửa soạn để trả lời. Đức Chúa Trời sẽ tha thứ bao nhiêu tội? Hay nói khác đi, có phải Đức Chúa Trời sẽ không tha thứ khi chúng ta nhúng quá sâu vào trong tội? Câu trả lời là, không một ai biết vì chẳng có ai đi quá xa như thế. Không một người nào đọc mấy lời nầy cần phải thất vọng. Vô luận bạn sống gian ác như thế nào trong quá khứ, nếu bạn xây lại với Chúa, Ngài sẽ tha thứ cho bạn cách dư dật.
Nếu Đức Chúa Trời tha thứ cho David, chắc chắn Ngài sẽ tha thứ cho bạn.
Nếu một kẻ tà dâm giết người có thể tìm gặp ân điển, có hy vọng cho bạn và tôi đấy.
Đức Chúa Trời sẽ tha thứ bao nhiêu tội? Hết thảy! Không một tội nào vượt quá ân điển của Đức Chúa Trời nếu chúng ta xây lại với Ngài bằng một tấm lòng đau thương và thống hối. Tha thứ luôn luôn là khả thi, song chỉ dành cho người nào xử lý cách sâu sắc và thành thực với chính tội lỗi của họ.
Tôi giả sử câu hỏi sẽ là như vầy: Bạn có muốn được tha thứ không? Tôi nói “thậm chí” vì bạn có thể làm cho lòng mình cứng cỏi tới điểm bạn không còn quan tâm mình có được tha thứ hay không!?! Đối với hạng người thể ấy, chẳng có gì còn lại trừ ra sự phán xét đáng sợ của Đức Chúa Trời. Nhưng nếu bạn có lòng khao khát nhỏ nhoi nhất muốn được tha thứ, nếu trong lòng bạn, bạn muốn có một khởi sự mới, tội lỗi của bạn có thể được tha thứ.
Mọi sự không nói tới bạn. Mọi sự không nói tới tội lỗi của bạn.
Mọi sự đang nói tới Đức Chúa Trời. Mọi sự đang nói tới ân điển.
Ở câu 7, David đã cầu nguyện: “Cầu Chúa hãy rửa tôi, thì tôi sẽ nên trắng hơn tuyết”. Bạn có muốn được như thế chăng? Bạn có muốn vết uế tội lỗi được dời đi khỏi đời sống của bạn không? Bạn có muốn được rửa sạch “trắng hơn tuyết" không? Việc ấy sẽ xảy ra nếu bạn đến với Chúa cùng một thái độ mà David đã có trong Thi thiên 51. Vào đầu thập niên 1870, có một người tên là James Nicholson đã làm việc trong vai trò thư ký ở văn phòng bưu điện ở Philadelphia. Ông cũng rất năng động trong Hội thánh Wharton Street Methodist Episcopal. Ông đã viết bài thánh ca dựa theo Thi thiên 51:7 có đề tựa là Trắng hơn tuyết đã được ưa thích trong suốt chiến dịch giảng Tin Lành của Mục sư D. L. Moody. Đây là câu thứ nhứt, câu thứ ba và câu cuối cùng bài thánh ca của Ông Nicholson:
Lạy Chúa Jêsus, con ước ao được trọn lành hoàn toàn; Con muốn Ngài ngự đời đời vào linh hồn con. Xin bẻ gãy từng hình tượng, xua đuổi từng kẻ thù; giờ đây xin rửa con và con sẽ được trắng hơn tuyết.
Lạy Chúa Jêsus, con xin hạ mình xuống van nài; con chờ đợi, lạy Chúa phước hạnh, nơi chơn Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá.
Bởi đức tin, xin thanh tẩy con, nguyện con nhìn thấy huyết Ngài tuôn chảy; giờ đây, xin rửa con và con sẽ được trắng hơn tuyết.
Lạy Chúa Jêsus, trước mặt Ngài con trông đợi; Hãy đến ngay giờ nầy và dựng nên trong con một tấm lòng mới.
Đối với người nào chịu tìm kiếm Ngài, Ngài chẳng hề nói: “không”; giờ đây xin rửa con và con sẽ được trắng hơn tuyết.
Giai điệu:
Trắng hơn tuyết, phải, trắng hơn tuyết. Giờ đây, xin rửa con và con sẽ được trắng hơn tuyết.
Một dòng đặc biệt đập mạnh vào tôi với một sức mạnh cả thể: Đối với người nào chịu tìm kiếm Ngài, Ngài chẳng hề nói: “không”. Tôi dám chắc Vua David sẽ thốt ra hết lòng: Amen. Đức Chúa Trời không hề xua đi một người có tấm lòng thành thật tìm kiếm. Vô luận bạn đã làm gì, hay bạn sống ở đâu, hoặc tội lỗi bạn xấu xí dường nào, nếu bạn chịu đến với Chúa Jêsus, Ngài sẽ không hề nói: “không”.
Có lẽ phần ứng dụng thì đơn sơ giống như điều nầy. Hãy lấy lời lẽ của bài thánh ca nầy, như chúng dựa theo Thi thiên cổ xưa nầy, rồi biến chúng thành của riêng bạn. Hãy nói về chúng, hãy hát chúng lên, hãy dùng chúng mà cầu nguyện với Chúa. Người nào chạy đến với Ngài bằng tấm lòng đau thương thống hối sẽ được sạch trắng hơn tuyết. Nguyện mọi sự ấy trở thành kinh nghiệm của bạn ngay hôm nay.


Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012

NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN GIẾNG


NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN GIẾNG
và CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO

Samari, một phần trong xứ Palestine: người Do thái sống ở đó đã bị đưa đi làm phu tù ở Babylôn. Những người bị bỏ lại: làm nô lệ của người Babylôn nào chuyển xuống phía Nam, để chiếm lấy xứ Palestine.
Mối hôn nhân tạp tạo ra những đứa con có dòng máu tạp, khi người Do thái trở về từ Babylôn, bị xem là 'dân ngoại': vì họ không có Ápraham là tổ phụ chính thống của họ.
Người Do thái đi giữa thành Jerusalem và xứ Galilê: vội vã băng qua thành Samari dân ngoại, mà không dừng lại. Không những Chúa Jêsus dừng lại, mà còn bắt đầu một chức vụ đáng nhớ cho dân sự ở đó nữa.
Đi ngang ai đó là một người Samari, và là một phụ nữ, thì không đáng chấp nhận đối với một người đàn ông Do thái. Người đàn bà kia biết rõ mọi sự nầy: và lấy làm kinh ngạc khi thấy Chúa Jêsus không chối bỏ bà.
Người Do thái không hề uống nước từ một cái bình được sử dụng bởi một người Samari: vì họ sẽ xem cái bình và hành vi là ô uế về mặt nghi thức. Tuy nhiên, Chúa Jêsus đã hỏi xin nước uống: trong cái bình mà người đàn bà cung cấp cho.
Nữ giới thường cùng nhau đi lấy nước: còn người đàn bà trong câu chuyện thì đi có một mình; vì những người khác sẽ chẳng có việc gì phải làm với bà ta, vì bà ta vốn là một tội nhân mà ai cũng biết.
Các câu 17-18 chép rằng bà ta đã sống với một người không phải là chồng của bà ta; và đã sống với năm người đàn ông khác nữa, trong quá khứ. Mặc dù vậy: Chúa Jêsus chẳng nhắc gì đến tội lỗi; và, thay vì thế, đã tỏ ra những dấu hiệu rõ ràng về việc tiếp nhận bà ta.
Ở các câu 12, 15, 20, sự tiếp nhận của Đấng Christ: làm cho người đàn bà thấy thoải mái đủ để trao đổi về lịch sử, nơi chốn, truyền thống và những điều thiết thực. "Tổ phụ chúng tôi là Gia-cốp để giếng nầy lại cho chúng tôi, chính người uống giếng nầy … chúng tôi, con cháu của người, luôn uống nước nầy … ông không có gì mà múc .. chúng tôi đã thờ lạy trên hòn núi nầy, v.v…"
Chúa Jêsus đã sai các môn đồ Ngài đi mua đồ ăn từ làng của người Samari "không sạch" kia. Điều đó đã xấu đủ rồi: thế nhưng, khi họ trở lại, các môn đồ thấy Ngài đang trò chuyện với một mình người đàn bà "dân ngoại".
Câu 28 chép: "Người đàn bà bèn bỏ cái vò của mình lại và vào thành".Trong thời buổi đó, khuyên nhũ một người đàn bà là chuyện rất bất thường; trên chuyến đi lấy nước; bỏ đi nơi khác rồi để cái bình lại đàng sau.
Một việc bất thường đã xảy ra: và bà ta rất vội vã; về nhà, rồi thuật lại câu chuyện của mình; như có cái gì đó nặng nề phải mang lấy.
Thế là sứ mệnh phi thường của Đấng Christ đã khởi sự với người thành Samari.
Một trong những quan điểm tôn giáo và thuộc linh khi ấy rất quan trọng, và vẫn quan trọng, gồm có:
Trong việc xin nước uống: Chúa Jêsus đã gạt qua một bên những trở ngại về xã hội và tôn giáo: và đề ra nền tảng cho mọi sự tốt lành mang tính sáng tạo nối theo sau.
Câu 10. Chúa Jêsus phán: "Ví bằng ngươi biết sự ban cho của Đức Chúa Trời, và biết người nói: "Hãy cho ta uống" ...
Nói khác đi, Ngài biết chính xác Ngài là ai; và mọi điều xảy đến cho Ngài. Khi nhìn biết chúng ta là ai, và chúng ta sẽ như thế nào, có tầm quan trọng lớn lao, trong bất kỳ vấn đề, công việc gì mà chúng ta đảm nhiệm.
Ở các câu 10, 13-14: người đàn bà đưa ra một số vấn đề thực tiễn và phản diện; Chúa Jêsus ứng đáp với mọi điều ấy, với những thách thức về mặt thuộc linh.
Khả năng "đọc" thấy mọi điều kín nhiệm sâu kín của bà ta nơi Ngài: đã gây ấn tượng cho bà ta: và phản ứng của bà ta đối với Ngài cho thấy rất chân thành.
Ở câu 19, bà ta, cũng chuyển sang những vụ việc thuộc linh. Bà ta đã đụng đến những cách thờ phượng: và đã dựng lên sự việc để Chúa Jêsus phải trả lời, phù hợp với mọi nhu cần thuộc linh của bà ta.
Ngài hướng tâm trí của bà ta ra khỏi phần lịch sử và truyền thống: rồi lèo lái lý trí ấy đến với Thân Vị của Đức Chúa Trời, và bước vào mối quan hệ thuộc linh với Ngài.
Bà ta được khích lệ để thốt ra những gì bà ta thực sự tin tưởng: và thốt ra mọi kỳ vọng của mình về Đấng Mêsi trong tương lai.Trong câu nói: "Ta, người đang nói với ngươi đây, chính là Đấng đó": Đấng Christ đã mở đường để cho đức tin của bà ta được len vào, và mọi nhu cần tối hậu của bà ta được thỏa mãn. Những ngăn trở về xã hội và tôn giáo Chúa Jêsus đã dời đi, ngay thời điểm đó: làm hình bóng trước cho sự di dời đời đời mọi ngăn trở như thế giữa Đức Chúa Trời và con người, là điều đã đạt được tại thập tự giá.
Người đàn bà vào trong thành: rồi đưa ra bằng chứng phi thường, và làm chứng, với dân sự là những người thường không chịu nghe bà ta nói: "Hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm; ấy chẳng phải là Đấng Christ sao?"
Người dân thành phố đó, đặc biệt là cánh đàn ông, không những lắng nghe bà ta (một người đàn bà; một tội nhân, và đủ thứ còn lại) mà còn đáp ứng lại trong một tư thế rất tích cực nữa.
Câu 31. Đồng thời, các môn đồ: họ không nghe thấy cuộc tranh cãi về mặt thuộc linh giữa Chúa Jêsus và người đàn bà, đã lấy làm lạ không biết tại sao Ngài không ăn một số đồ ăn mà họ đã đem về. Chúa Jêsus, vẫn còn nấn ná với các vấn đề thuộc linh, thay vì những quan tâm thiết thực: đã không phê phán họ.
Thay vì thế: Ngài chuyển từ những mối quan tâm thiết thực của họ: rồi tiếp tục đến lý do tại sao họ có mặt ở đó trong chỗ đầu tiên; truyền giảng, chứng đạo và làm chứng: và tiếp đến ban cho họ một bài giảng ngắn gọn về công cuộc truyền giáo.
Các câu 39-42 cho thấy rằng, trong thành phố, nhiều người Samari đã tin theo Đấng Christ, qua sự làm chứng của người đàn bà. Họ đã nhìn thấy một sự thay đổi đích thực nơi bà ta: những điều xác quyết mọi sự bà ta đã nói.
Theo cách làm chứng của bà ta: "Hãy đến xem một người": cánh đàn ông đã đi ra để gặp gỡ Chúa Jêsus. Họ giục giã Ngài ở lại với họ, trong thành của họ: Ngài đã ở lại trong hai ngày.
Nhiều người nữa đã trở thành tín đồ; qua sự hiện diện và sự dạy dỗ của Chúa: và có thể xác chứng rằng: "chính chúng ta đã nghe Ngài, và biết rằng chính Ngài thật là Cứu Chúa của thế gian".
Một số luận điểm trong câu chuyện đó; đặc biệt đặc biệt có liên quan đến ngày hôm nay: trong công cuộc truyền giáo, chứng đạo.
Chúa Jêsus 'đã vỡ đất mới, qua việc phá vỡ những luật lệ vô dụng cũ rích'. Ngài đã làm thế, qua việc dấn thân vào rồi cam kết với nhân loại đang có cần.
Tại thập tự giá; sau cùng Ngài đã phá vỡ những hàng rào ngăn trở giữa Đức Chúa Trời và con người: nhưng Ngài đã bắt đầu trước tiến trình đó; bao gồm sự cố xảy ra bên giếng.
Hội thánh không bao giờ trình một tấm thiệp giới thiệu Đấng Christ, với thế giới đang có cần; song Đấng Christ chơn thật, Ngài đã dấn thân vào mọi hoàn cảnh và các sự kiện; và ngay cả trong chỗ "nhớp nhúa và bùn lầy", của thế gian đến nỗi Ngài đã chịu chết để làm nên sự cứu rỗi.
Các môn đồ đã không tiếp thu được toàn bộ sự việc, để bước theo Chúa; và để có phần trong những gì Ngài sẽ làm; và những gì Ngài sắp sửa làm ra nữa.
Nhiều nhà thờ hôm nay, họ chưa chịu bỏ đi một số đường lối cũ của họ; và bỏ qua một số luật lệ tự tạo; để "vỡ đất mới" của họ trong sự phục vụ Đấng Christ.
Vì Chúa Jêsus hiểu rõ chính xác Ngài là ai: và mọi điều Ngài được kêu gọi để lo làm; có một sự "dạn dĩ thánh" nơi Ngài, là điều mà kẻ thù Ngài đã công nhận.
Ở đó, bên cái giếng: Đấng Christ bị vây quanh bởi những người ngoại và sự chối bỏ; bởi những cách thực hành tôn giáo bất toàn, và những thái độ xét đoán; cũng như tội lỗi nữa.
Giữa mọi sự nầy: Ngài dám làm những điều Đức Chúa Trời đã sai phái Ngài đến để lo làm.
Còn các nhà thờ hôm nay thì sao? Có phải họ "dám đảm nhận" những gì Đức Chúa Trời kêu gọi và ủy thác cho họ phải lo làm không?
Ban đầu, phản ứng duy nhứt của người đàn bà: ở trên cấp độ thực tiễn của lịch sử và truyền thống. Gạt mọi cách nói 'an toàn' như thế qua một bên: Chúa Jêsus phán với bà ta theo những giới hạn về mặt thuộc linh.
Sẽ có một sự khác biệt sống chết giữa lối nói "an toàn" kia, mà chẳng có ai chống đối với; và phần làm chứng thuộc linh, có thể cắt lòng, và đổi thành một đời sống dành cho Đấng Christ.
Người đàn bà bên giếng đã không sợ hãi khi làm chứng lại. Sau khi trở lại với thành phố, bà ta nói: "Hãy đến xem một người": vì vậy, họ đi ra; rồi đích thân họ gặp gỡ Chúa Jêsus.
Vì cớ sứ mệnh một cặp một của Đấng Christ với người đàn bà: bà ta bị thuyết phục và đã trở lại đạo; rồi bước vào sự cứu rỗi.
Qua sứ mệnh 'một với vài người', với một số đàn ông trong thành ấy: họ đã trở lại với Đấng Christ. Vì cớ sứ mệnh làm chứng từ 'một vài với nhiều người'; cánh đàn ông trong thành ấy đã vọt lên tới một số lượng lớn lao hơn: họ cũng trở lại với Đấng Christ, và rồi đã bước vào ân điển cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã hoạch định cho họ.
Câu chuyện nói tới 'người đàn bà bên giếng' minh họa, rõ ràng nhất: tính đơn sơ của sứ mệnh và công cuộc truyền giáo, và niềm vui mừng lan rộng khi công cuộc ấy được phu phỉ.
Câu chuyện; và hệ quả cao của nó: vẫn còn liên quan tới hôm nay; và làm dấy lên những thắc mắc không thể bỏ qua: tỉ như:
Chúng ta đang đảm nhiệm loại sứ mệnh và công cuộc truyền giáo nào, từ các nhà thờ của chúng ta; và đâu là kết quả của nó?
Chúng ta nói với nhiều người khác câu: "Hãy đến xem một người" với hy vọng rằng đích thân họ, cũng sẽ gặp gỡ Đấng Christ? Amen!

Công Vụ các Sứ Đồ 9:31 - 10:23: "“Vỡ Đất Mới”


“Vỡ Đất Mới”
Công Vụ các Sứ Đồ 9:31 - 10:23
Mục sư Lyle L. Wahl
Đức Chúa Trời đào tạo hạng tín hữu sẵn lòng lo vỡ đất mới.
Phần giới thiệu:
Sáng nay chúng ta sẽ suy nghĩ về việc vỡ đất mới. Cụm từ đến từ việc làm nông, ở đó vỡ đất có nghĩa là sửa soạn đất chưa trồng trọt để đưa vào sử dụng. Trước khi có máy móc, và thậm chí bây giờ trong những nơi kém phát triển, công cụ cầm tay, sức mạnh của thú vật và con người đều đã được sử dụng để vỡ đất mới.
Chúng ta đang suy nghĩ theo các giới hạn thuộc linh, đang xem xét việc vỡ đất mới trong hội thánh, chuyển vào một khu vực mà ở đó chưa được lực lượng nồng cốt các môn đồ đụng đến.
Đức Chúa Trời vỡ đất mới nơi con người, trong hội thánh và trong thế gian. Sống với Đức Chúa Trời có nghĩa là dự vào cuộc phiêu lưu rất thú vị. Một phần trong đó là được mặc lấy quyền phép và được Đức Chúa Trời đại dụng để vỡ đất mới.
Giống như nhà nông sử dụng công cụ thích hợp để vỡ đất mới, cũng một thể ấy dân sự của Đức Chúa Trời cần phải sống sao cho thích ứng và sử dụng những cách tiếp cận cùng loại công cụ hợp lẽ. Lẽ thật chính cho chúng ta hôm nay, ấy là Đức Chúa Trời đào tạo hạng tín đồ sẵn lòng lo vỡ đất mới. Tuần tới chúng ta sẽ để ra một giây đồng hồ nhìn vào phần thứ nhứt của chương 10 từ một nhận định khác. Giờ đây, chúng ta hãy khởi sự bằng cách xem xét …
Phần thách thức của việc vỡ đất mới.
Chúng ta bắt đầu với công việc: mở rộng Tin Lành ra cho dân Ngoại. Tin Lành. Những tin tức tốt lành nói tới Đức Chúa Jêsus Christ. Những tin tức tốt lành nói tới tình yêu thương, ơn tha thứ và sự sống đời đời của Đức Chúa Trời trong và qua Chúa Jêsus.
Mong ước của Đức Chúa Trời dành cho mọi người ở khắp mọi nơi là nghe được tình yêu và ơn tha thứ của Ngài chẳng phải là một điều gì mới mẻ. Từ thời thơ ấu, các môn đồ của Chúa Jêsus đã được dạy dỗ về mục đích và kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho dân Israel là…trở nên sự sáng cho các dân tộc trên thế giới; qua sự làm chứng tin kính của họ, chiếu sáng về Đức Chúa Trời, về lẽ thật, tình yêu thương và sự cứu chuộc của Ngài.
Và các môn đồ của Chúa Jêsus đã nghe Ngài phán: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (John 3:16).
Và Ngài cũng phán cùng họ: “Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân…” (Mathiơ 28:19).
Và, sau mấy lời đó, sau khi Chúa Jêsus về trời, sau khi Hội thánh được khai sinh vào ngày lễ Ngũ Tuần, sau lần bắt bớ đầu tiên và tan rãi Hội thánh, một số tín hữu đã chia sẻ Tin Lành với người Samari, và phần nhiều người trong số dân nầy, nhiều nhất là những người có nửa dòng máu Do thái, đã tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của họ. Phierơ và Giăng đã đến tại thành Samari để kiểm tra mọi điều đã xảy ra.
Họ đã chúc phước cho công việc rồi rao giảng cho người thành Samari trên đường trở về lại thành Jerusalem. Song đông đúc và gần gũi nhất, Hội thánh vẫn là người Do thái và các sứ đồ đang phục vụ cho chính dân tộc của họ. Vì vậy, thách thức của Đức Chúa Trời là phải vỡ đất mới, mở rộng Tin Lành qua người Do thái và người thành Samari đến các dân Ngoại, đến với mọi người.
Đức Chúa Trời đã chọn Phierơ đi đầu trong nhiệm vụ nầy. Ai cũng biết Phaolô là vị sứ đồ cho dân Ngoại, trong khi Phierơ ai cũng biết ông là sứ đồ cho người Do thái. Nhưng trong việc vỡ đất mới nầy, Đức Chúa Trời đã bắt đầu với Phierơ.
Đức Chúa Trời đã chọn loại người nào?
Phierơ là một người tầm thường. Ông cũng không giàu có cũng chẳng có học vấn cao.
Ông xuất thân hoàn toàn từ một lai lịch truyền thống Do thái, với mọi thành kiến đối với ai chẳng phải là người Do thái.
Ông bốc đồng và ngoan cố.
Ông rất trung thành và là một con người của hành động.
Điều nầy cho chúng ta biết điều gì? Một việc: ấy là Đức Chúa Trời thực hiện sự kêu gọi. Ngài lựa chọn bất cứ ai Ngài muốn. Đức Chúa Trời bắt đầu với một chuổi nguyên liệu thô. Và hết thảy chúng ta phải vui mừng khi Ngài hành động, vì điều đó có nghĩa là chúng ta có phần trong công việc nầy.
Đôi khi những sự lựa chọn của Đức Chúa Trời làm cho chúng ta phải kinh ngạc và bối rối. Khi nhìn lại mình và nhìn vào nhiều người khác, không nên mau chóng bác bỏ khả năng Đức Chúa Trời mong muốn bạn, Đức Chúa Trời muốn họ phải vỡ vùng đất mới nào đó. Thắc mắc đáng phải là: “Sao không phải là tôi?” thay vì “Sao lại là tôi?”
Đức Chúa Trời lựa chọn, và rồi sửa soạn, đào tạo nhân sự sao cho thích ứng với công việc của Ngài. Vì vậy, bây giờ chúng ta cần phải nhìn xem cách thức Đức Chúa Trời đào tạo chúng ta thành loại nhân sự thích hợp như thế nào!?!.
Đào tạo nhân sự thích hợp.
Có bốn phương diện chúng ta thấy nơi Phierơ ở đây. Thứ nhứt, Đức Chúa Trời đào tạo loại nhân sự thích hợp qua việc làm rõ và khẳng định ơn kêu gọi của Ngài. Ở cái nhìn ban đầu, phần cuối của chương 9 dường như chẳng kết nối với chương 10, song có đấy. Hãy nhìn vào 9:32: “Vả, Phi-e-rơ đi khắp các xứ, cũng đến cùng các thánh đồ ở tại thành Ly-đa”. Phierơ đang trên đường đến với các hội thánh trong khu vực nầy.
Chúng ta mở bản đồ để đến với địa điểm nầy. Ở phía sau quyển Kinh thánh của bạn, hãy kiểm tra tấm bản đồ nói tới thời của Đấng Christ, hội thánh đầu tiên, hay các sứ đồ. Ở phía sau quyển Kinh thánh của bạn, hãy mở ra tấm bản đồ số 6, đề tựa là xứ Palestine trong thời Đấng Christ. Trong khi bạn tìm ra tấm bản đồ ấy, chúng ta có tấm bản đồ chiếu trên màn hình.
Lyđa nằm cách Tây Bắc thành Jerusalem 25 dặm và có số dân cư đa số là người Do thái.
Đây là một trung tâm hành chính với các doanh nghiệp làm đồ gốm và vải lanh cùng sản phẩm trái vả và rượu.
Một số việc lạ lùng xảy ra từ câu 32 cho đến hết chương. Thứ nhứt, ở Lyđa, Đấng Christ, qua Phierơ, đã chữa lành cho một người bị đau bại và nằm liệt giường trong 8 năm trời.
Bản tường trình của Luca chẳng ghi lại một lời cầu xin được chữa lành nào từ người có tên Ênê nầy, Luca cũng không nói cho chúng ta biết ông ta có phải là tín đồ hay đã trở thành một tín đồ hay không!?!
Luca ghi lại rằng: “Phi-e-rơ nói với người rằng: Hỡi Ê-nê, Đức Chúa Jêsus-Christ chữa cho ngươi được lành, hãy chờ dậy, dọn dẹp lấy giường ngươi. Tức thì, người vùng chờ dậy”. Kết quả là, có nhiều người đã tin theo Chúa Jêsus. Phép lạ nầy đã đem lại ơn chữa lành về phần xác cho Ênê rồi dẫn đến sự chữa lành về mặt thuộc linh cho nhiều người.
Thế rồi, có câu chuyện kỳ diệu ở Giốpbê nói tới việc Đấng Christ làm cho Tabitha, hay Đôca, được sống lại qua Phierơ. Chúng ta hãy mở bản đồ ra. Giốpbê nằm trên bờ biển cách Lyđa 12 dặm về phía Tây Bắc.
Đức Chúa Trời đã làm ra phép lạ nầy qua Phierơ theo cách riêng. Không có ai khác ở đó, đám đông phải ở ngoài hết. Phierơ đã cầu nguyện. Mà rằng: “Hỡi Tabitha, hãy chờ dậy”. Giống như với Ênê, phép lạ nầy có tức thì và hoàn toàn. Kết quả là, một lần nữa, có nhiều người tin theo Chúa Jêsus.
Đây là hai phép lạ bất thường và rất có ấn tượng. Đức Chúa Trời không làm hai phép lạ nầy để để thổi phồng cái tôi hay tiếng tăm của Phierơ. Đối với Phierơ, chúng là một sự khẳng định về quyền phép vô hạn của Đức Chúa Trời hoàn tất bất cứ điều gì và mọi sự Ngài yêu cầu Phierơ phải lo làm — thậm chí những việc mà Phierơ có thể nghi ngờ.
Ở đây, tại Giốpbê, Đức Chúa Trời đã ban cho Phierơ một khải tượng để in trí rằng Tin Lành là dành cho mọi người trên cơ sở bình đẳng — người Do thái và dân Ngoại (10:10-16). Trong khải tượng ấy, có một tiếng nói phán: “Hỡi Phi-e-rơ, hãy dậy, làm thịt và ăn!” các loài thú cả sạch hay có thể chấp nhận và ô uế hay bị hạn chế đối với người Do thái.
Người Do thái đã noi theo một số luật lệ trong luật pháp, như trong các chế độ ăn uống, là mọi sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời.
Nhiều người khác thì có phần mở rộng và bổ sung riêng. Xuống tới câu 28 để nhìn thấy một trường hợp khác: “Người nói cùng chúng rằng: Người Giu-đa vốn không được phép giao thông với người ngoại quốc hay là tới nhà họ …”
Trong mọi sự nầy, Đức Chúa Trời đang làm sáng tỏ với Phierơ rằng đất mới cần phải được vỡ ra.
Và, Phierơ tiếp thu lấy sứ điệp. Về sau trong chương 10, khởi sự ở câu 34, Phierơ nói: “…Quả thật, ta biết Đức Chúa Trời chẳng hề vị nể ai, nhưng trong các dân, hễ ai kính sợ Ngài và làm sự công bình, thì nấy được đẹp lòng Chúa”.
Cũng một thể ấy, Đức Chúa Trời sẽ làm sáng tỏ và khẳng định ơn kêu gọi của Ngài với chúng ta để vỡ đất mới, trong trường hợp đất mới ấy nằm trong chính đời sống chúng ta hay trong chức vụ. Giờ đây, đôi khi Đức Chúa Trời sử dụng các phép lạ để làm sáng tỏ và khẳng định sự dẫn dắt của Ngài. Chúng luôn luôn rất hiếm hoi. Mục đích, ấy là cho dù có việc gì đi nữa, khi Đức Chúa Trời muốn bạn tiến tới trước, Ngài sẽ luôn luôn cung ứng cho bạn đủ sự sáng tỏ và khẳng định để đi bước kế tiếp.
Cách thứ hai Đức Chúa Trời đào tạo chúng ta trở thành hạng nhân sự sẵn lòng là qua sự cầu nguyện. Chúng ta hãy trở lại với câu 9 trong chương 10.
“Bữa sau, trong lúc ba người ấy đang đi đường và đã đến gần thành, vừa nhằm giờ thứ sáu Phi-e-rơ leo lên mái nhà để cầu nguyện”.
Phierơ là một con người của sự cầu nguyện. Thời điểm là giữa trưa. Phierơ đang đói và đang chờ bữa ăn được dọn lên khi ông đi cầu nguyện. Đây là cách làm thông thường cho người Do thái tin kính có ba thời điểm cầu nguyện trong ngày. Đây chẳng phải là một trong những thời điểm đều đặn đó. Những gì chúng ta thấy ở đây từ Phierơ không phải là một chế độ cứng ngắt, song là một kỷ luật về mặt thuộc linh.
Có một số lẽ thật ở đây, nhưng giờ đây hãy chú ý là trong mối quan hệ bình thường hàng ngày của Phierơ khi tương giao trò chuyện với Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời đã ban cho ông tầm nhìn và sự dẫn dắt nầy về những hành động đặc biệt lo làm tròn sứ mệnh mà Chúa Jêsus đã ban bố phải đến với mọi người bằng Tin Lành.
Đức Chúa Trời đào tạo chúng ta trở thành hạng nhân sự thích hợp qua sự cầu nguyện. Đức Chúa Trời ban cho chúng ta nhiều chỉ đạo cụ thể trong Kinh thánh. Vô luận bạn là Cơ đốc nhân bao lâu, luôn luôn có nhiều điều để học tập và sống theo. Đồng thời, Đức Chúa Trời không nhắc đến trong Kinh thánh từng quyết định, hướng dẫn và hoàn cảnh cụ thể mà bạn sẽ đối diện với.
Tìm kiếm sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời cho đời sống của bạn sẽ không đạt được nếu không có sự cầu nguyện. Đức Chúa Trời dẫn dắt chúng ta qua Kinh thánh, qua mưu luận của các Cơ đốc nhân khác, qua sự khôn ngoan của Ngài mà Ngài rời rộng cung ứng cho chúng ta, và qua sự cầu nguyện.
Đừng trông mong một bản kế hoạch chi tiết sẽ được thả xuống từ trời. Nhưng Đức Chúa Trời luôn luôn cung ứng đủ sự sáng láng để thực hiện bước kế tiếp, để bước đi trong đức tin để tin cậy Ngài khi bạn thực hiện bước kế tiếp đó. Có khi bước ấy rất đáng sợ. Có thể bạn đã nghe nói về Grand Canyon Skywalk. Đây là chuyến đi chừng 70 feet tính từ mép núi, treo lơ lửng trên 4.000 feet hay khoảng ¾ dặm bên trên hẻm núi. Bạn cảm thấy ra sao khi bước ra rồi nhìn xuống chơn mình và thấy đáy sâu 4.000 feet bên dưới? Henry & Freda mới đây có mặt ở đó, vì vậy bạn có thể hỏi họ đấy. Còn bây giờ, hãy nhìn vào vài bức tranh đi (đang chiếu trên màn hình).
Đức Chúa Trời sẽ ban cho bạn lòng dạn dĩ để bước ra, bước thứ nhứt, bước kế đó của đức tin. Có phải bạn trò chuyện đều đặn hàng ngày với Đức Chúa Trời không? Có phải bạn đem đến những kỷ niệm cũng như các thảm họa của bạn đến với Ngài? Có phải bạn nói với Ngài về Kinh thánh bạn đã đọc, nghiên cứu hay nghe nói? Có phải bạn cầu xin Ngài giúp bạn học hỏi và sống theo hầu trở nên giống với Chúa Jêsus càng hơn không?
Thứ ba, Đức Chúa Trời đào tạo chúng ta qua Lời của Ngài. Đức Chúa Trời đã phán trực tiếp với Phierơ. Cuộc đối đáp bắt đầu ở 10:13: “Lại có tiếng phán cùng người rằng: Hỡi Phi-e-rơ, hãy dậy, làm thịt và ăn”. Song Phierơ phản kháng: “Lạy Chúa, chẳng vậy; vì tôi chẳng ăn giống gì dơ dáy chẳng sạch bao giờ”. Đức Chúa Trời đáp: “Phàm vật chi Đức Chúa Trời đã làm cho sạch, thì chớ cầm bằng dơ dáy” (câu 15). Và, Luca thuật lại cho chúng ta biết, điều nầy được lặp đi lặp lại ba lần (câu 16).
Phierơ là một người theo truyền thống nhưng cũng là một người Do thái rặc. Ông sẽ không ăn bất kỳ thứ đồ ăn nào là không sạch, nhưng lúc bấy giờ ông đang ở với Simôn là thợ thuộc da ở Giốpbê. Vì cớ sự tiếp xúc của họ với các thú vật chết cùng da của chúng, người Pharisi và hạng người Do thái tỉ mỉ khác đã xem thợ thuộc da là ô uế.
Phierơ đã phản đối, đã “nghi ngờ” (câu 17), và kế đó đã suy gẫm những gì Đức Chúa Trời đã nói với ông trong khải tượng (câu 19). Trong khi ông đang suy gẫm, Đức Chúa Trời lại phán nữa, câu 19: “…Đức Thánh Linh phán cùng người rằng: Kìa, có ba người đang tìm ngươi. Vậy, hãy đứng dậy, xuống mà đi với họ, chớ hồ nghi, vì ta đã sai họ đó”. Phải, Đức Chúa Trời đã phán trực tiếp với Phierơ.
Đức Chúa Trời cũng phán với chúng ta, với bạn và tôi. Có thể bạn mau chóng đáp: “Xin chờ một phút! Tôi chưa có khải tượng nào hết! Tôi chưa nghe Đức Chúa Trời phán với tôi bằng giọng nói nghe thấy được!” Hãy nhớ, kinh nghiệm là phần ngoại lệ đối với Phierơ, chớ không phải là định mức. Hãy nhớ kỹ rằng chúng ta có Lời thành văn trọn bộ của Đức Chúa Trời. Còn Phierơ thì không có.
Điểm mấu chốt không thay đổi, ấy là Đức Chúa Trời phán cùng chúng ta qua Lời của Ngài để làm thay đổi, để nắn đúc chúng ta khi Ngài truyền đạt cho chúng ta. Trong phần lớn thời gian của đời sống chúng ta, Thánh Linh Đức Chúa Trời dạy dỗ, chỉnh sửa và nắn đúc chúng ta qua Kinh thánh. Khi Phaolô viết thư cho Timôthê, ông nhắc cho Timôthê nhớ trong II Timôthê 3:16-17: “Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành”.
Chúa Jêsus dạy chúng ta ở Giăng 16:13 rằng Đức Thánh Linh sẽ “dẫn [chúng ta] vào mọi lẽ thật”.
Sau cùng, Đức Chúa Trời đào tạo chúng ta thành hạng nhân sự thích hợp qua sự vâng lời. Phierơ không vâng theo ngay lập tức. Hãy nhớ, trong khải tượng kia, Đức Chúa Trời phán: “Hỡi Phi-e-rơ, hãy dậy, làm thịt và ăn!” Đối với mạng lịnh ấy, Phierơ phản công: “Lạy Chúa, chẳng vậy; vì tôi chẳng ăn giống gì dơ dáy chẳng sạch bao giờ”.
Khi câu 16 nói cho chúng ta biết: “Lời đó lặp lại ba lần”, thì có nghĩa là Phierơ đã phản kháng ba lần.
Gần như đây là một hồi tưởng lại khi Chúa Jêsus đang sửa soạn các môn đồ cho sự chết của Ngài. Phierơ đã nhảy ùa vào rồi phản kháng ở đó. Trở lại với Tin Lành Mathiơ 16:21: “Từ đó, Đức Chúa Jêsus mới tỏ cho môn đồ biết rằng mình phải đi đến thành Giêrusalem, phải chịu tại đó nhiều sự khốn khổ bởi những người trưởng lão, thầy tế lễ cả, cùng thầy thông giáo, và phải bị giết, đến ngày thứ ba phải sống lại. Phi-e-rơ bèn đem Ngài riêng ra, mà can rằng: Hỡi Chúa, Đức Chúa Trời nào nỡ vậy! Sự đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu!” (các câu 21-22).
Chúa Jêsus chỉnh ông ngay, câu 23: “Nhưng Ngài xây mặt lại mà phán cùng Phi-e-rơ rằng: Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta! Ngươi làm gương xấu cho ta; vì ngươi chẳng nghĩ đến việc Đức Chúa Trời, song nghĩ đến việc người ta”.
Như tôi đã nói ở trên, Phierơ là một con người bốc đồng và ngoan cố, một con người của hành động, song ông cũng là một người rất trung thành. Hãy chú ý ở cả Mathiơ 16 và ở đây trong Công Vụ các Sứ Đồ 10, Phierơ đã tỏ ra sự kính trọng trong những lần phản kháng của ông bằng cách xưng Đấng Christ là Chúa.
Phierơ đã vâng lời. Ông đã suy gẫm, tỏ ra ông cho thấy ông nắm lấy quyền chủ động, và rồi Đức Thánh Linh đã dẫn dắt ông. Như một sự khẳng định cực kỳ, Đức Chúa Trời nói ông biết ba người đang đến nơi cổng để tìm ông và ông cần phải đi với họ mà chẳng nên có sự nghi ngại gì hết. Hãy xem câu 21: “Phi-e-rơ bèn xuống cùng họ mà nói rằng: Ta đây, là người các ngươi đang tìm; các ngươi đến đây có việc gì? Họ trả lời rằng: Đội trưởng Cọt-nây là người công bình, kính sợ Đức Chúa Trời, cả dân Giu-đa đều làm chứng tốt về người, người đó đã bởi một vị thiên sứ thánh mà chịu mạng lịnh từ nơi cao rằng phải mời ông về nhà và nghe lời ông. Phi-e-rơ bèn mời họ vào nhà và cho trọ tại đó. Ngày mai, Phi-e-rơ chờ dậy đi với họ, có một vài người trong hàng anh em từ Giốp-bê cùng đi với” (các câu 21-23).
Cọtnây chẳng phải là một tín đồ đâu. Chúng ta biết điều đó ở phân nửa sau của chương 10. Nhưng còn hơn thế nữa, ông là một dân Ngoại. Không những là dân Ngoại, mà còn là một đội trưởng trong quân đội Lamã mà người Do thái rất xem khinh. Đây là một chuyến đi ấn tượng từ những gì Phierơ đã biết, đã cảm nhận, đã tin và đã kinh nghiệm, nhưng ông đã vâng theo Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời đào tạo bạn và tôi để vỡ đất mới khi chúng ta vâng theo Ngài. Đừng bao giờ xem nhẹ sự thúc giục của Đức Chúa Trời phải làm hay không làm một việc gì đó, trở nên hay không trở nên thứ gì đó. Khi Đức Chúa Trời phán, chúng ta cần phải trở thành người biết lắng nghe và làm theo Lời của Ngài, nếu khác đi chúng ta sẽ đâm ra chai lì thuộc linh và sẽ không còn nhạy cảm với Ngài như chúng ta đáng phải có. Một lần nữa, cần phải có lòng dạn dĩ và đức tin. Có nhiều lúc chúng ta sẽ cảm nhận giống như Phierơ: “Chúa ơi, con chưa bao giờ làm việc nầy trước đây! Làm sao con có thể làm được chứ? Điều gì sẽ xảy ra? Người ta sẽ nghĩ sao?”
Đức Chúa Trời đào tạo bạn và tôi để vỡ đất mới khi chúng ta vâng theo Ngài.
Phần kết luận:
Đức Chúa Trời đào tạo hạng tín đồ sẵn lòng để vỡ đất mới. Đừng thối lui nhé. Hãy xem đấy là niềm vui lớn lao khi ở tại chốn tương giao và phục vụ, nơi mà Đức Chúa Trời muốn bạn bước vào để vỡ đất mới.
Có vô số tấm gương mà chúng ta có thể nhìn thấy về con người, hạng người tầm thường mà Đức Chúa Trời đã sử dụng trong nhiều cách khác nhau để vỡ đất mới. Chúa nhựt vừa qua, tôi đã chia sẻ với bạn câu chuyện của Howard Hendricks nói tới một phụ nữ ở tuổi 80, bà đang tìm những ý tưởng mới, những phương thức mới để vỡ đất mới trong đời sống của những thanh thiếu niên trung đại học, và thể nào ít nhất 84 người trong số chúng đã bước vào chức vụ.
Tôi nghĩ một cựu binh giáo sĩ hưu hạ, bà kỳ vọng gia đình mình bước vào chỗ phục vụ Đức Chúa Trời. Bà đã làm việc trong một khu vực rất khó khăn. Những người đi trước bà đã làm việc thật trung tín cả đời họ hầu như chẳng có ai đến với Đấng Christ. Bà, và nhiều người khác cùng với bà, đã làm việc nhiều năm trời trước khi nhìn thấy mọi kết quả. Song Đức Chúa Trời đã sử dụng họ để vỡ đất mới. Ngày nay có một ngôi nhà thờ với hàng chục ngàn tín đồ trong nhóm bộ tộc ấy.
Có người trồng, có người tưới, có người gặt. Có mùa gieo, người khác thì tưới và nhiều người khác nữa lo gặt hái. Có người nhìn thấy các con số thật lớn, nhiều người khác thì thấy các con số nhỏ mà thôi.
Nhưng chính Đức Chúa Trời là Đấng luôn luôn năng động, vỡ đất mới qua hạng nhân sự sẵn lòng mà Ngài đã đào tạo.
Khi bạn sử dụng một vài phút yên tĩnh suy gẫm với Đức Chúa Trời về lẽ thật nầy, hãy cảm tạ Ngài vì việc vỡ đất mới trong tấm lòng của bạn — để tiếp cận với tình yêu và đem bạn đến với chính mình Ngài, thay đổi bạn cho đến đời đời. Hãy quyết định phải nhạy cảm và đáp ứng với Đức Chúa Trời ở nơi bạn sinh sống và ở nơi Đức Chúa Trời dẫn dắt bạn, để vỡ đất mới trong chính đời sống của bạn. Rồi cũng phải có tấm lòng, khải tượng, sự cung hiến để thể hiện ra sự nhơn từ của Ngài, chia sẻ ân điển và ơn thương xót của Ngài, để vỡ đất mới trong chức vụ với và vì tha nhân.

Thứ Ba, 27 tháng 3, 2012

Thi thiên 136: "Sự Nhân Từ Ngài Còn Đến Đời Đời"


Sự Nhân Từ Ngài Còn Đến Đời Đời
– Thi thiên 136
Cách đây mấy ngày, tôi nhận được một bức thư gửi đến từ người bạn lần đầu tiên tôi gặp khi chúng tôi cùng ở chung một nhóm thanh niên nhiều năm trước đây. Bạn tôi gửi một sứ điệp trên Facebook chứa một quan sát rất sâu sắc:
Trong tâm trí tôi, chúng tôi vẫn là những thanh niên vô tư, ngây thơ tại nhà thờ. Tuy nhiên, sự thực cho thấy rằng chúng tôi giờ đây đang ở tuổi trung niên, và tôi nhận thấy phần nhiều bạn bè của chúng tôi trên Facebook đang đối phó với nhiều chứng bịnh đặc biệt khó khăn. Nhiều người khác đang mất đi các bạn bè thân thích, những nhà tư vấn, và các thành viên trong gia đình đang ở phần cuối của tuổi thọ bình thường. Điều đó hiện đang gây tổn thương, một khi chúng ta là loại hữu thể bất toàn.
Bạn tôi nói thêm, có một lượng tổn thương rất lớn đang diễn ra. Ai có thể hồ nghi vấn đề rất thực nầy? Khi bạn còn trẻ, bạn cảm thấy bất khả chiến bại. Tôi luôn luôn nghĩ đây là một việc tốt, cảm giác sống dạn dĩ, mạnh mẽ và có khả năng chinh phục bất kỳ trở ngại nào, vì nó cung ứng cho lứa tuổi thanh niên sự can đảm để nổ lực trước các việc lớn. Có người nhận xét rằng thanh niên lãng phí tuổi trẻ thì thật là tội nghiệp. Theo thời gian, chúng ta kiếm được sự khôn ngoan, nó đến từ kinh nghiệm, khi ấy chúng ta đánh mất tính vô tư và ngây thơ đi.
Đôi khi chúng ta kiếm được sự khôn ngoan đó từ con cái của chúng ta. Chúng ta có một số bạn thân, họ phục vụ rất hiệu quả trong vai trò giáo sĩ ở Alaska. Cách đây một năm rưỡi, người vợ bị chẫn đoán với khối u trong não. Sở dĩ như thế là vì một cú sốc, cô ấy còn trẻ và diện mạo bề ngoài dường như rất mạnh khỏe. Song chứng ung thư chẳng hề biết tư vị một ai.
Gần đây, bạn bè của chúng tôi đã nhận các tin tức xấu cho rằng chẳng còn có phương điều trị khả thi nữa. Người vợ giờ đây đang khởi sự vào ở trong trại tế bần. Chúng tôi biết rõ hoàn cảnh của họ vì họ đã hay liên lạc với bạn bè trên Facebook và mạng Twitter. Người chồng và người vợ cả hai đều nói năng công khai về hành trình của họ qua sợ hãi, giận dữ và nghi ngờ. Tuy nhiên, sâu lắng ở trong lòng, đức tin của họ cứ mãi vững chắc. Tôi có ấn tượng với hai sứ điệp ghi trên tài khoản Twitter của họ mới đây. Người chồng đã viết rằng “căng thẳng cao độ trên gia đình mấy ngày nay”. Rồi còn có vấn đề nầy về đứa con sáu tuổi của họ nữa:
Trong một bức thư. Một thời gian sau, Audrey nói rằng cô ấy nghĩ Thiên đàng là nơi tuyệt vời để đi tới, vì vậy cô ấy quyết định không “chia tay” với Chúa Jêsus:
Hãy chú ý gương mặt mĩm cười đứng ở phần cuối câu đó. Đúng là có một lẽ thật trong cái biểu tượng nho nhỏ ấy. Trong thì giờ khủng hoảng lớn lao, chúng ta khám phá ra thực sự chúng ta đang tin theo điều gì. Đối với những người bạn thân, khi đến với giờ phút chân lý trọng đại, họ mĩm cười qua hai hàng nước mắt vì họ nhìn biết Đức Chúa Trời là tốt lành.
Trong lúc bây giờ.
Ngay trong nhà tế bần.
Audrey nói đúng. Tại sao phải “chia tay” với Chúa Jêsus trong lúc bây giờ chứ?
Chúng ta phải nhận biết Đức Chúa Trời là ai để chúng ta sẽ được mạnh mẽ khi những cơn gió buồn rầu thổi tới nghịch cùng chúng ta.Đạo thật đang làm điều đó cho chúng ta.
Chúng ta có thể nhìn thấy nguyên tắc nầy đang tác động trong Thi thiên 136, đôi khi được gọi là “Thi thiên Halêlugia” vì nó không chứa một lời cầu xin, không có một lời than vãn, và chẳng có một nan đề nào hết. Thay vì thế, nó chứa một danh sách những giờ phút mà Đức Chúa Trời đã tác động trong lịch sử, mỗi một câu được trả lời bằng điệp khúc “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”. Chắc chắn là người hướng dẫn thờ phượng sẽ đọc dòng đầu tiên của từng câu, rồi hội chúng sẽ đáp: “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”.
I. Lời kêu gọi ngợi khen
Thi thiên bắt đầu như sau:
“Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là thiện;
Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời.
Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời của các thần,
Vì sự nhân từ Ngài còn đến đời đời.
Hãy cảm tạ Chúa của muôn chúa;
Vì sự nhân từ Ngài còn đến đời đời” (các câu 1-3).
Mấy câu nầy cung ứng cho chúng ta ba lý do để ngợi khen Đức Chúa Trời:
1. Ngài là thiện!
2. Ngài là Đức Chúa Trời của các thần!
3. Ngài là Chúa của muôn chúa!
“các thần” “muôn chúa” hết thảy đều ở chung quanh chúng ta, nhưng chỉ có một Đức Chúa Trời chơn thật duy nhứt là Đấng đang tể trị thế gian. Thuộc về Đức Chúa Trời cao cả ấy là sự ngợi khen cao cả, sâu sắc nhất và tốt đẹp nhất của chúng ta.
Hãy xem xét ý nghĩa của những việc nầy:
1. Ngài thực sự là Đấng Chí Cao của Vũ Trụ.
2. Ngài là thiện trong mọi sự Ngài làm.
Thật là khó khi đánh giá cao giá trị của các lẽ thật nầy:
1. Nếu Ngài không phải là tối thượng, chúng ta sẽ không thờ lạy Ngài.
2. Nếu Ngài không là thiện, chúng ta sẽ không tin cậy Ngài.
Nhưng vì Ngài là thiện và là Chúa tối thượng, không những chúng ta tin cậy Ngài, mà chúng ta còn sấp mình xuống trước mặt Ngài trong sự ngợi khen và thờ lạy nữa!
Hãy chú ý điệp khúc đối đáp trong từng câu một: “Sự nhơn từ Ngài còn đến đời đời”. Câu nói đơn sơ nầy nhắc cho chúng ta nhớ rằng mọi sự tỏ ra lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đang vận hành vì ích cho con cái của Ngài.
Từ ngữ Hêbơrơ được dịch là “nhân từ” đề cập tới tình yêu của bậc vua chúa, tình yêu trung thành, hay bạn có thể gọi đây là “tình yêu giao ước”. Đấy là tình yêu luôn kéo dài vì tình yêu ấy đặt cơ sở trên một sự cam kết không thể phá vỡ được. Đấy là tình yêu mà người chồng dành cho vợ của mình hay tình yêu của người mẹ dành cho con cái mình. Tình yêu của Đức Chúa Trời là đời đời vì giao ước của Ngài là đời đời. Ngài không thể không yêu thương dân sự của Ngài!
Nhưng ý nghĩa còn trổi hơn thế nữa. Tình yêu của Đức Chúa Trời còn mãi đời đời.
Tình yêu ấy tồn tại lâu dài hơn mọi nan đề của cuộc sống.
Tình yêu ấy trổi hơn mọi trăn trở mà chúng ta đối diện hàng ngày.
Tình yêu ấy tiếp tục khi sự sống của chúng ta đến mức cuối cùng.
Charles Spurgeon mô tả tình yêu nầy như vầy:
“Không một thánh đồ nào cuối cùng hay rủi ro sẽ vấp ngã. Buồn rầu có thể đưa chúng ta đến với bụi đất, và sự chết có thể đưa chúng ta đến với mồ mả, nhưng chúng ta không thể chìm đến mức thấp hơn nữa, và từ chổ tận cùng nhứt đó, hết thảy chúng ta đều sẽ trổi lên đến nơi cao nhất của mọi nơi cao”.
Khi chúng ta đứng bên nấm mộ của một người thân, chúng ta phải biết rõ lẽ thật. Ông ấy đang ở đâu chứ? Bà ấy đang ở đâu chứ? Có phải sự chết là cuối cùng hay việc gì khác là cuối cùng?
Điều chi cung ứng lòng tin cậy cho chúng ta khi đối mặt với sự chết bằng những cái đầu được giữ ở mức cao độ chứ? Làm sao chúng ta băng qua sông Giôđanh để tới được bờ bên kia? Chúng ta có thể vì “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”. Thế đấy! Đấy là niềm hy vọng của chúng ta! Chúng ta chết đi, nhưng “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”. Chúng ta thất bại, nhưng “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”. Chúng ta vấp rồi té ngã, nhưng “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”.
II. Lý do để ngợi khen
Phần còn lại của Thi thiên 136 chứa một khảo sát về sự thành tín của Đức Chúa Trời bắt đầu với sự sáng tạo (các câu 5-9) rồi kết thúc với sự Israel vào trong Đất Hứa (các câu 10-26).
A. Sự sáng tạo (các câu 5-9)
Mấy câu nầy noi theo khuôn mẫu chung của Sáng thế ký 1. Câu 5 tương xứng với Sáng thế ký 1:1. Câu 6 tương xứng với Sáng thế ký 1:2. Các câu 7-9 tương xứng với Sáng thế ký 1:14-18. Hãy chú ý vũ trụ và muôn vật trong đó được dựng nên “bởi sự khôn sáng của Ngài”. Điều nầy gạt bỏ thuyết tiến hóa vô mục đích hay số phận mù mờ. Vũ trụ bước vào hiện thực vì Đức Chúa Trời muốn nó phải trở nên hiện thực. Có lẽ bạn đã thấy trên áo T-shirt có ghi hàng chữ: “Tôi tin nơi thuyết Big Bang. Đức Chúa Trời đã phán, thì Bang! Việc ấy liền xảy ra”. Tác giả của Thi thiên 136 sẽ nhất trí ngay. Hêbơrơ 11:3 thốt ra cùng lẽ thật theo cách nầy: “Bởi đức tin, chúng ta biết rằng thế gian đã làm nên bởi lời của Đức Chúa Trời, đến nỗi những vật bày ra đó đều chẳng phải từ vật thấy được mà đến”. Toàn bộ vũ trụ đều bước vào hiện thực bằng chiếc phi cơ được tạo dựng từ bàn tay và lý trí của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Không một điều gì được lập lên bằng cơ hội cả. Không một điều gì “tiến hóa” thành hiện thực bởi sự đột biến ngẫu nhiên. “Sự khôn sáng” của Đức Chúa Trời đang đứng ở đàng sau vũ trụ như chúng ta đang nhìn xem nó.
Kể từ khi vũ trụ hình thành trên “sự khôn sáng” của Đức Chúa Trời, không một ai có thể hiểu được vũ trụ cách thích đáng nếu không nhìn biết Đức Chúa Trời. Nếu bạn loại Đức Chúa Trời ra, bạn sẽ bỏ sót lẽ thật cơ bản về vũ trụ! Để hiểu biết nguồn gốc con người và phần lịch sử đúng đắn của vũ trụ, chúng ta phải bắt đầu với sự khôn sáng của Đức Chúa Trời khi Ngài mặc khải cho chúng ta trong Lời của Ngài. Hãy khởi sự ở chỗ đó thì bạn khởi sự trên cái nền vững chắc. Khởi sự bất cứ đâu khác thì bạn bị chìm vào phần cát lún của sự vô tín nhân văn.
Hết thảy chúng ta đều vật vã với ba thắc mắc quan trọng nầy:
Tôi từ đâu đến?
Tại sao tôi có mặt ở đây?
Tôi sẽ đi đâu?
Thắc mắc thứ nhứt là thắc mắc cơ bản nhất. Cho tới chừng nào bạn trả lời thắc mắc ấy, bạn không thể trả lời đúng được cho hai thắc mắc kia. Trong chuyến du hành mới đây của tôi đến Trung Hoa, tôi đã chia sẻ ba thắc mắc ấy khi tôi giảng cho 450 sinh viên đại học. Trong thời gian hỏi và đáp, có một sinh viên nói rằng anh ta không nghĩ anh ta từ đâu đến hay anh ta sẽ đi đâu là vấn đề. Việc duy nhứt là vấn đề, ấy là anh ta đã làm gì trong khi anh ta đang có mặt ở đây trên đất. Anh ta muốn biết tôi nghĩ gì về quan điểm của anh ta. Câu hỏi là quan trọng vì nó buộc chúng ta phải đương diện với các vấn đề cơ bản nhất của cuộc sống. Nếu chúng ta không đến từ chỗ nào đó và sẽ không đi đến một nơi nào đó, thế thì mọi sự chúng ta còn lại là 60 hay 70 hoặc 80 năm chúng ta sống trên hành tinh địa cầu nầy. Tại sao không chỉ ăn, uống và vui sướng vì ngày mai chúng ta sẽ chết chứ? Tại sao phải đem bản thân mình lo liệu việc chi khác nếu cuộc đời chỉ có từng ấy việc? Nhưng nếu chúng ta được dựng nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời, nếu Ngài yêu thương chúng ta nhiều đến nỗi Ngài đã sai Con Một của Ngài đến để chết vì chúng ta, thế thì chẳng có gì là vấn đề hơn là nhìn biết Đức Chúa Trời một cách sâu sắc, một cách riêng tư và một cách tường tận.
B. Xuất Aicập (các câu 10-15)
Mấy câu nầy gợi nhớ hàng loạt phép lạ đáng kinh ngạc bởi đó Đức Chúa Trời đã giải phóng dân sự Ngài ra khỏi vòng nô lệ của người Aicập:
“Ngài đã đánh giết các con đầu lòng xứ Ê-díp-tô . . .
“Đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi giữa chúng nó . . .
"Dùng cánh tay quyền năng giơ thẳng ra. . .
"Ngài phân Biển đỏ ra làm hai . . .
"Khiến Y-sơ-ra-ên đi qua giữa biển ấy. . .
"Xô Pha-ra-ôn và cả đạo binh người xuống Biển đỏ…”
Đức Chúa Trời đã không gặp khó khăn khi đánh bại kẻ thù của Ngài. Ngài cũng chẳng gặp khó khăn gì khi phân Biển Đỏ ra làm hai. Ngài chỉ yêu cầu dân sự Ngài công nhận Ngài đã làm mọi sự ấy – chớ không phải họ!
Chúng ta nên ngợi khen Chúa không những chúng ta đã được giải cứu mà kẻ thù của chúng ta đã bị đánh tan tác, bị xấu hổ, và hoàn toàn bị đánh bại vì . . . “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”.
C. Đồng vắng (câu 16)
Tác giả Thi thiên tóm tắt 40 năm phiêu bạt trong một câu: “Ngài dẫn dân sự Ngài qua đồng vắng, sự nhân từ Ngài còn đến đời đời” (câu 16). Vì có nhiều việc xảy ra trong 40 năm đó: bánh mana và chim cút, nước chảy ra từng vầng đá, Balaam và con lừa biết nói của ông ta, Môise trên Núi Sinai, con bò con bằng vàng, Cađe Banêa, 12 thám tử, những bộ hài cốt trong sa mạc, sự lằm bằm, và những thách thức liên tục đối với chức vụ lãnh đạo của Môise. Qua mọi sự ấy, Đức Chúa Trời đã lãnh đạo dân sự Ngài đến Đất Hứa.
Hãy chú ý rằng Đức Chúa Trời đã lãnh đạo dân sự Ngài “qua” sa mạc, chớ không phải quanh sa mạc. Để đến với Đất Hứa, họ phải nếm trải sa mạc. Cũng một thể ấy cho hết thảy chúng ta. Đức Chúa Trời lãnh đạo con cái Ngài đến thiên đàng, nhưng họ chẳng có một con đường nào dễ dàng khi họ thực hiện chuyến linh trình của mình. Có nhiều khúc quanh, nhiều dốc đèo, nhiều trở ngại, và nhiều chỗ chết chóc nữa, nhưng Đức Chúa Trời vận hành trong và qua mọi sự ấy để ai nấy đều nhìn thấy rằng sau cùng họ đến nơi vì . . . “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”.
D. Cuộc chinh phục (các câu 16-22)
Bạn có thể tìm thấy câu chuyện nói tới Sihôn và Óc trong Dân số ký 21. Khi dân Israel muốn có con đường thuận tiện đi ngang qua vùng đất của người Amôrít, vua Sihôn đã từ chối không cho dân Israel đi qua rồi tấn kích họ. Ông ta đã bị đánh bại và Israel kết thúc bằng việc chiếm lấy các thành trì của dân Amôrít. Khi họ tiến quân trên đường, Óc vua Bashan đã đem quân đội mình ta nghinh chiến. Ông ta cũng bị đánh bại hoàn toàn.
“Vậy, dân Y-sơ-ra-ên đánh bại Óc, các con trai người và cả dân sự người, cho đến chừng không còn người nào ở lại; dân Y-sơ-ra-ên chiếm lấy xứ người vậy” (Dân số ký 21: 35).
Mấy câu nầy quả là một sự khích lệ vì chúng nhắc cho chúng ta nhớ tới sự thành tín của Đức Chúa Trời bất chấp mọi thất bại cứ lặp đi lặp lại của chúng ta. Thật là dễ cho người Do thái phải suy nghĩ: “Tội lỗi của chúng ta đã khiến cho Đức Chúa Trời quên chúng ta. Chúng ta chẳng có chút hy vọng, chẳng có một tương lai nào hết. Chúng ta bị thổi tung hết trong mọi sự”. Song bất chấp tội lỗi và sự vô tín dại dột của họ, Đức Chúa Trời không bao giờ từ bỏ dân sự Ngài.
Hãy để cho từng con cái của Đức Chúa Trời nắm lấy hy vọng lớn lao đó. Quá khứ của bạn không quyết định tương lai của bạn. Bạn có thể cứ mãi thất bại hoài, nhưng vẫn có ơn thương xót cho những ai biết tin cậy nơi Chúa. Ai biết được, trừ phi ngày mai bạn sẽ nhìn thấy Đức Chúa Trời thắng lớn trong đời sống của bạn vì … “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”.
E. Xuyên suốt lịch sử (các câu 23-25)
Mấy câu nầy chứa ba lẽ thật quan trọng nói về Đức Chúa Trời:
1. Ngài nhớ chúng ta (câu 23).
2. Ngài giải cứu chúng ta (câu 24).
3. Ngài ban đồ ăn cho chúng ta (câu 25).
Ngài nhớ chúng ta qua việc sai Chúa Jêsus đến cứu chúng ta.
Ngài giải cứu chúng ta ra khỏi tội lỗi của chúng ta.
Ngài ban đồ ăn cho chúng ta từng ngày một.
Những gì Đức Chúa Trời đã làm cho Israel xưa kia, Ngài đang làm cho dân sự Ngài ở khắp mọi nơi, mọi thời đại, trong từng hoàn cảnh một vì. . . “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”.
III. Phần kết của lời ngợi khen
Thi thiên 136 kết thúc với lời kêu gọi phải ngợi khen Đức Chúa Trời khắp mọi thời đại: “Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời của các từng trời! Vì sự nhân từ Ngài còn đến đời đời" (câu 26). Chúng ta hãy gói ghém bài học của chúng ta về Thi thiên nầy với ba phần kết quan trọng.
1. Lịch sử không nói về chúng ta. Lịch sử nói về Đức Chúa Trời.
Điều nầy dường như quá cơ bản, song thực ra đấy là một lẽ thật quan trọng.
Bạn không phải là trọng tâm của lịch sử.
Đức Chúa Trời mới là trọng tâm của lịch sử!
Những gì xảy ra cho bạn là vấn đề, nhưng mục đích thực của cuộc sống là làm vinh hiển cho Đức Chúa Trời trong mọi sự.
Để nhìn thấy bàn tay của Ngài đang vận hành.
Để tin theo Ngài trong những giờ phút tối tăm nhất.
Để dâng lên Ngài mọi lời cảm tạ về từng chiến thắng.
Để nương vậy vào Lời của Ngài.
Để lớn lên giống như Ngài mỗi ngày.
Để sống sao cho người khác thấy tin theo Ngài là điều dễ dàng.
Đấy là lý do tại sao tác giả Thi thiên kết nối mọi sự thực cụ thể của lịch sử với một tiếng kêu la đắc thắng ngợi khen. Nếu chúng ta bỏ sót điều nầy hay nếu chúng ta trì trệ nó, hoặc nếu chúng ta nghĩ rằng Đức Chúa Trời không cứ cách nào đó “tùy chọn” cho đời sống chúng ta, khi ấy chúng ta đã bỏ sót mục đích chính của sự tồn tại chúng ta.
Hỏi: Đâu là cứu cánh chính của con người?
Đáp:Làm vinh hiển Đức Chúa Trời và tận hưởng Ngài cho đến đời đời.
Phải, tất nhiên rồi. Đấy là những gì quyển giáo lý Westminster chép. Chúng ta khẳng định như thế và vui sướng làm như vậy. Nhưng điều đó không luôn luôn là dễ dàng. Trong văn kiện dài dòng của lịch sử Israel, tác giả Thi thiên bao trùm nhiều thế kỷ thời gian chỉ trong một vài câu mà thôi. Chương trình của Đức Chúa Trời không luôn luôn được thấy cách dễ dàng ở từng điểm dọc theo linh trình. Khi người Do thái rên rỉ ở Aicập dưới lằn roi của Pharaôn, chúng ta có thể hiểu lý do tại sao họ đã cảm nhận Đấng Toàn Năng đã từ bỏ họ. Sau đó họ đã lằm bằm nghịch với Đức Giêhôva sau khi họ được giải phóng và đã nói rất nhiều lần: họ nhớ Aicập.
Chúng ta thiển cận làm sao!
Quên phứt sự nhân từ của Đức Chúa Trời đối cùng chúng ta là dường nào!
Chúng ta cầu xin sự giải cứu và rồi than phiền khi sự cứu ấy đến. Chúng ta ra đời ước ao điều gì đó tốt hơn. Thi thiên nầy nhắc cho chúng ta nhớ trong từng câu một rằng đường lối của Đức Chúa Trời và đường lối của chúng ta chẳng phải là một đâu. Nói chung, chúng ta chỉ nhìn thấy chương trình của Đức Chúa Trời khi quay nhìn lại sau. Khi chúng ta quay nhìn lại, chúng ta nói: “Ồ, giờ đây tôi thấy rồi”. Nhưng khi chúng ta đang ở trong lò lửa, chúng ta chẳng nhìn thấy gì khác ngoài những ngọn lửa kia mà thôi.
Chúng ta cần Thi thiên 136 để tự nhắc nhớ mình, vì chúng ta có xu hướng quên sự ấy, rằng Đức Chúa Trời đang hành động qua nhiều thế kỷ để thiết lập mục đích của Ngài ở trên đất. Sở dĩ như thế là vì chúng ta không nhìn thấy vào ngày thứ Năm lúc 6:37 chiều chẳng có ý nghĩa gì khi tới giờ đó.
Như vậy có nghĩa là chúng ta không nhìn thấy nó.
Thế thôi.
Chúng ta không ở ngay trọng tâm của vũ trụ – Đức Chúa Trời là Đấng ở tại trọng tâm đó. Tốt nhứt là chúng ta nên suy gẫm về sự thực ấy ngay bây giờ vì chúng ta chắc chắn cần phải nhớ điều đó trước khi năm nay qua đi.
2. Đức tin của chúng ta yên nghỉ trên các sự thực.
Sự tường thuật dài dòng phần lịch sử của Israel dạy chúng ta rằng đức tin của chúng ta đặt trên mọi hành động cụ thể của Đức Chúa Trời trong lịch sử nhân loại. Khi Phaolô đưa ra lời biện hộ của ông trước Vua Atrípba trong Công Vụ các Sứ Đồ 26, ông kết luận câu nói của mình về sự chết và sự phục sinh của Đấng Christ với lời lẽ nầy:
“Vua biết rõ các sự nầy; lại tôi bền lòng tâu vì tin rằng chẳng có điều nào vua không biết; vì mọi việc đó chẳng làm ra cách chùng vụng đâu" (câu 26).
Ông muốn nói tới một việc đại loại như vầy: “Hỡi vua, vua đừng quyết chắc lời của tôi. Song hãy tự mình kiểm tra đi. Những sự thực có ở đó cho bất cứ ai muốn xem xét”. Đấy là lý do tại sao câu trả lời tốt nhứt cho một kẻ hay chỉ trích rất là đơn sơ: “Hãy đọc Kinh thánh và nhận lấy cho tâm trí mình”. Trong thời gian hỏi đáp ở Trung Hoa, có một sinh viên khác nói rằng có người ở Trung Hoa sẽ bất đồng với tôi, họ phải tôn trọng nhận định của tôi và lắng nghe những điều tôi đã nói. Sau đó, anh ta bước tới gần vợ tôi rồi tiếp tục cuộc tranh luận của mình. Khi nàng hỏi anh ta: “không biết anh có đọc Kinh thánh hay không”, anh ta đáp rằng anh ta có đọc song không tin theo Kinh thánh. Nàng đáp: “Cứ đọc Kinh thánh đi, thì anh sẽ hiểu rõ những điều chồng tôi nói tới tối nay”. Đấy là lời khuyên rất tuyệt vời, có phải không? Chỉ cứ đọc Kinh thánh rồi nhìn thấy cho bản thân mình những điều Kinh thánh thực sự nói tới.
Chúng ta chẳng có gì để lo sợ đối với những kẻ hay chỉ trích đức tin Cơ đốc vì đức tin của chúng ta lập nền trên những thực tại quan trọng của Kinh thánh – một sự sáng tạo bởi tay của Đức Chúa Trời, sự sinh tồn của Israel, các phép lạ trong Cựu Ước, những lời tiên tri nói tới Đấng Mêsi, và mọi thứ cao chót vót khác, sự giáng sinh lạ lùng, đời sống vô tội, sự chết có tính cách hy sinh, và sự sống lại đắc thắng của Đức Chúa Jêsus Christ và sự thăng thiên về trời của Ngài. Mọi việc nầy không được làm ra cách chùng vụng đâu.
3. Nhớ tới bức tranh lớn:Sự nhân từ Ngài còn đến đời đời.
Hãy tự mình nói như thế. Hãy lặp lại câu nói ấy đi. Hãy học thuộc lòng câu ấy. Khi bạn thấy mình bị cám dỗ phải thất vọng, hãy suy gẫm tư tưởng nầy: “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”. Khi bạn muốn thối lui, hãy viết ra tư tưởng nầy rồi dán nó lên tấm bảng ở trước mặt bạn: “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”. Hãy nói với chồng mình: “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”. Hãy nói với vợ mình: “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”. Hãy nói với con cái mình: “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”. Khi chính ma quỉ khởi sự thì thầm trong lỗ tai bạn về điều bạn mất mát, bạn hãy nhớ: “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”. Khi bạn có mọi sự, khi thế gian dường như sụp đổ ở chung quanh bạn, hãy chổi dậy, ngước đầu lên, rồi hô to lên bầu trời kia: “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”.
Bất luận bạn đi đâu vào tuần lễ nầy, “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”.
Bất luận nan đề của bạn có là gì đi nữa, “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”.
Bất luận bạn cảm thấy thế nào đi nữa, “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”.
Bất luận bạn đến đâu vào tuần lễ nầy, “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”.
Khi tôi viết ra mấy lời nầy, chúng ta đã bước vào một năm mới với mọi sự hứa hẹn và mọi sự bất ổn của nó. Chúng ta đem theo với mình gánh nặng chồng chất mọi lo sợ, ký ức về mọi thất bại trong quá khứ cặp theo với mọi ước mơ, kỳ vọng về tương lai.
Năm mới nắm giữ điều gì cho chúng ta? Khi tôi mở mạng Internet, tôi thấy hết bài nầy tới bài khác với nhiều lời tiên đoán cho năm 2011. Dường như là chúng ta bị phá tán với những tay bói toán và mấy kẻ cứ ngồi chăm chú vào quả bóng thủy tinh. Có người thậm chí tuyên bố ngày tái lâm của Đấng Christ, ghim nó cho một ngày thật đặc biệt. Tôi sẽ nói thẳng rằng tôi không biết thị trường chứng khoán sẽ lên hay xuống trong năm nay, tôi chẳng có ý tưởng gì về ai sẽ đoạt giải Super Bowl, và tôi không thể dám chắc Chúa Jêsus sẽ tái lâm vào 12 tháng tới hay không (hoặc 12 năm tới nữa)!?!
Tôi không phải là một nhà tiên tri hay con trai của một vị tiên tri đâu.
Nhưng tôi dám chắc nhiều về điều nầy, và tôi sẽ có chỗ đứng trên đó: “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”.
Vì Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, thực như thế trong sáu tháng nữa cũng thực như hôm nay. Vì Đức Chúa Trời không thể thay đổi, tình yêu của Ngài sẽ không bao giờ thay đổi. Hãy in trong trí điều đó khi bạn đối diện với những bất ổn ở trước mặt bạn. Có lẽ mọi sự sẽ suông sẻ cho bạn trong năm 2011. Tôi hy vọng mọi sự đều suông sẻ. Có lẽ bạn sẽ kinh nghiệm những câu trả lời lạ lùng cho sự cầu nguyện. Nguyện đấy sẽ là phần của bạn. Nhưng nếu bạn kinh nghiệm những thời điểm khó nhọc ở năm tới, nếu bạn phấn đấu để gặp được cứu cánh, nếu bạn cảm thấy mình đã lạc lối, nếu bạn bè của bạn dường như muốn nghịch lại bạn, nếu bầu trời sụp đổ ở quanh bạn, hãy trở lại với Thi thiên 136 rồi đọc lớn tiếng lên.
Hãy tự nhắc nhớ rằng chúng ta đang hầu việc một Đức Chúa Trời là Đấng đang hành động trong lịch sử.
Hãy nhớ rằng đường lối của Ngài không phải là đường lối của chúng ta.
Hãy suy gẫm quyền phép toàn năng của Ngài trong quá khứ.
Hãy xem xét thể nào Ngài đã dẫn bạn đi xa đến như vậy.
Hãy suy nghĩ đến nhiều lời hứa mà Ngài đã lập.
Hãy làm cho lý trí của bạn hướng về Chúa Jêsus, và vô luận điều chi xảy ra trong năm nay, hãy thốt ra lời xưng nhận của bạn ngay ở đây rồi luôn luôn vui mừng vì . . . “sự nhân từ Ngài còn đến đời đời”.

Thứ Tư, 21 tháng 3, 2012

Thi thiên 73: "Bài Ca Của Thánh Đồ Sa Ngã"


Bài Ca Của Thánh Đồ Sa Ngã
– Thi thiên 73
Có bao giờ bạn thôi không tin Chúa nữa không?
Điều đó có thể xảy ra cho bất kỳ ai trong chúng ta bất cứ lúc nào vì cuộc sống khó khăn và có khi rất kỳ lạ nữa.
Nếu bạn sống thọ đủ, đức tin của bạn bị buộc phải chịu thử thách rất nhiều lần. Thi thiên 73 thuật lại câu chuyện nói tới một người tin kính cảm thấy đức tin mình đã lạc trôi thật xa rồi. Mặc dù mấy lời nầy đã được viết ra cách đây 3000 năm, chúng cũng được viết ra cho hôm nay. Chúng ta có thể đọc mấy lời nầy rồi nói: “Tôi giống như Asáp trừ ra điều nầy. Ông đã giữ đức tin mình, còn tôi thì mất đức tin. Ông đã gặp Đức Chúa Trời. Tôi không biết mình tin cái gì đây nữa".
Nếu bạn từng phấn đấu với mọi điều phức tạp trong cuộc sống, thì đây là một Thi thiên dành cho bạn. Nếu bạn từng cảm thấy đức tin mình bắt đầu sa ngã, hãy tiếp tục đọc và chúng ta sẽ học biết về một người tin kính đã đối diện với những gì mà bạn hiện đương đối diện đây.
Việc đặt tên mình lên đầu bài cho chúng ta biết rằng đây là một Thi thiên do Asáp sáng tác. Chúng ta biết từ chỗ khác trong Cựu Ước rằng ông là một người hướng dẫn cuộc thờ phượng tại đền thờ Jerusalem trong thời Vua David. Khi tôi xem xét sự kiện nầy, tôi nhận thấy có nhiều nhạc sĩ mà tôi quen biết vốn có tâm linh rất nhạy bén phát ra từ chỗ suy nghĩ và cảm xúc sâu sắc. Bạn có thể gọi Thi thiên 73 là “nhận định từ vị trí của ban hát”. Trong Thi thiên nầy, Asáp mời chúng ta cùng đi với ông trên chuyến hành trình từ nghi ngờ đến đức tin.
Thi thiên nầy có hai phần: thắc mắc và giải đáp. Trong 14 câu đầu, Asáp tự hỏi tại sao kẻ ác dường như sống mạnh giỏi như vậy trong thế gian nầy. Tiếp đến, 14 câu sau cùng, chúng ta thấy đức tin đang dẫn ông đi từ chỗ thất vọng, giận dữ cho đến bình an và thỏa lòng.
I. Nghi ngờ làm dấy lên thắc mắc (các câu 1-14). Asáp bắt đầu bằng cách xưng ra cơn khủng hoảng đức tin khiến ông muốn chết đi.
“Đức Chúa Trời thật đãi Y-sơ-ra-ên cách tốt lành, tức là những người có lòng trong sạch. Còn về phần tôi, chân tôi đã gần vấp, xuýt chút bước tôi phải trợt. Vì khi tôi thấy sự hưng thạnh của kẻ ác, thì có lòng ganh ghét kẻ kiêu ngạo” (các câu 1-3). Chìa khóa cho toàn bộ Thi thiên đến từ câu 3: “Vì khi tôi thấy sự hưng thạnh của kẻ ác, thì có lòng ganh ghét kẻ kiêu ngạo”. Khi chịu khó nhìn đủ thì bạn có thể thấy ai đó, đâu đó, dường như họ sống sung sướng hơn, thỏa mãn hơn, hay khá hơn, với tiền lương thiệt là lớn, sức khỏe mỹ mãn hơn, ít nan đề hơn, cuộc sống tốt đẹp hơn, ngôi nhà khang trang hơn, một sự nghiệp thành công hơn, với nhiều bạn hữu hơn, mọi quan hệ tốt đẹp hơn, với tiếng tăm hơn, nhiều tiền bạc trong ngân hàng hơn, và nói chung dường như họ ở các nấc thang cao hơn bạn đấy.
Chúng ta đang sống trong một thế giới có những tỉ số như thế đó. Hết thảy chúng ta đều có một gu mà chúng ta thích ứng với nó, một chỗ mà chúng ta thuộc về, vị trí nhỏ nhoi của chúng ta trong một trật tự rộng lớn của cuộc sống. Tôi đã đi nhiều nơi trên thế giới và đã nhìn thấy nhiều nền văn hóa khác nhau, và dường như thì ở Thái lan hay Nigeria hoặc Thụy điển cũng giống như ở tại Hoa kỳ vậy. Bản chất của con người thì y như nhau cho dù là ở đâu.
Nếu tệ như thế chưa đủ, đây là một việc sẽ làm cho bạn xấu thêm suốt đêm nếu bạn suy nghĩ đến nó quá lâu. Có một số người dường như “cao cả” hơn bạn không phải là hạng người đàng hoàng. Có người rất xuẩn ngốc, có người là hạng lừa đảo, có người là du thủ du thực và thậm chí là đồ cặn bã, thế mà họ dường như đang sống phởn phơ. Thật là quá trơ trẻn khi phải chia sẻ không gian trên hành tinh với hạng người đầy tai tiếng, nhưng đôi khi chúng ta phải cùng làm việc với họ, cùng đến trường với họ, cùng sống chung với họ, nhận lịnh lạc từ họ, phục vụ trong các ban bệ với họ, và có khi chúng ta sống kề cửa nhà họ. Như vậy, quả là đáng thất vọng khi cảm thấy rằng mình phải bị hạng người không xứng đáng kia qua mặt ở cuộc chạy đường dài trong cuộc sống.
Không những đấy là nan đề của Asáp. Mà đấy cũng là nan đề của chúng ta nữa.
Nhưng có một việc sâu sắc hơn đã làm phiền Asáp khi ông quan hệ với nan đề nầy. Không những kẻ ác được thịnh vượng, điều nầy là đủ tồi tệ rồi. Thường thì khi kẻ ác được thịnh vượng thì người công bình lại phải chịu khổ. Từ một điểm phân tích kỹ càng, sự việc nầy quá kỳ cục.
Nếu chúng ta thực sự là dân sự của Đức Chúa Trời, chúng ta tìm cách làm theo ý chỉ của Ngài với mọi khả năng, nếu Ngài thực sự yêu thương chúng ta giống như Ngài phán Ngài yêu thương, thế thì tại sao Ngài là để cho những gã xấu xa thoải mái với tội giết người đang khi những người nhơn đức lại phải chịu khổ sở chứ? Đấy là một thắc mắc rất rắc rối. Có gì tốt lành khi để cho công lý phải đảo ngược như thế trong thế gian nầy? Sheldon Vanauken đóng khung vấn đề theo cách nầy:
Nếu chỉ có những kẻ gian ác bị gãy lưng hoặc ung thư, nếu chỉ có những tay lừa đảo và dối gạt bị bịnh Parkinson, chúng ta sẽ nhìn thấy một loại công lý của thiên đàng trong vũ trụ. Song khi một đứa trẻ dễ thương nằm chết với khối u trong não, một người vợ trẻ hạnh phúc nhìn thấy chồng con mình bị giết trước mặt bởi một tên tài xế say sượu và chúng ta hét lên đến tận trời: “Tại sao? Tại sao” (Cited by Lee Strobel in The Case for Faith, p. 28). + Tại sao những kẻ gian ác lên nắm quyền lực trong khi người công bình bị bắt bỏ tù?
+ Tại sao Đức Chúa Trời khiến cho những bạo chúa Trung Hoa sống đến tuổi già nua trong khi quí Mục sư tin kính phải chờ đợi nhiều năm trong những trại tù lao động?
+ Tại sao một vị giáo sĩ đầy ơn mắc phải chứng ung thư não ở giữa một chức vụ đầy hiệu quả chứ?
Tại sao? Tại sao? Tại sao?
Thi thiên 73 tô vẽ một bức tranh linh động về sự thịnh vượng của kẻ ác:
1. Sức khỏe của họ (câu 4): “Sức lực chúng nó vẫn đầy đủ”.
2. Đời sống “sung mãn” của họ (câu 5). “Chúng nó chẳng bị nạn khổ như người khác”.
3. Sự kiêu ngạo của họ (câu 6). “sự kiêu ngạo làm cây kiền cho cổ chúng nó”.
4. Sự bất công của họ (câu 7). “Tư tưởng lòng chúng nó tuôn tràn ra”.
5. Lời lẽ hung ác của họ (câu 8). “Chúng nó nhạo báng, nói về sự hà hiếp cách hung ác”.
6. Lời lẽ khoe khoang của họ (câu 9). “Miệng thì nói hành thiên thượng”.
7. Họ được lòng người ta (câu 10). “Vì cớ ấy dân sự Ngài xây về hướng đó”.
8. Thái độ phạm thượng của họ (câu 11). "Chúng nó rằng: Làm sao Đức Chúa Trời biết được?”
9. Cuộc sống vô tư của họ (câu 12a). “Chúng nó bình an vô sự luôn luôn”.
10. Sự giàu có của họ (câu 12b). “của cải chúng nó thêm lên”.
Sức khỏe và sự giàu có. Những gã xấu xa thì lại có được nhiều thứ tốt đẹp. Chúng ta phải công nhận rằng hình ảnh nầy rất là thực. Nó mô tả từng chi tiết bối cảnh cuộc sống không có Đức Chúa Trời!!! Câu 7 nói tới tấm lòng “chai lì” của họ. Đúng là một bản cáo trạng! Họ sống đúng theo đường lối của họ, họ sống đúng theo kiểu cách họ ưa thích, và dường như họ sống mà chẳng có chút lỗi lầm nào hết.
Trong khi suy nghĩ đến mọi sự nầy, chúng ta không cần phải “trả lời” cho thắc mắc ấy vì mọi sự rõ ràng là rất thực rồi. Trong khi đây không phải là bảng mô tả hoàn hảo về từng người bất kỉnh, nó chỉ là bức chân dung rõ ràng chỉ về một giai cấp tội nhân. Hết thảy chúng ta đều biết có một ít người thích ứng với khuôn mẫu nầy.
Asáp, ông là một người nhơn đức, đã phạm phải ba lầm lỗi cơ bản. Chúng ta có thể tiếp thu ba lầm lỗi nầy vì chúng ta cũng nhiều lần phạm phải chính các lầm lỗi ấy.
1. Chỉ xét đoán bởi những gì ông trông thấy. Có nhiều thứ cho cuộc sống hơn là làm thỏa mãn hai con mắt. Có loại người gian ác thịnh vượng trong một khoảng thời gian nào đó, điều nầy rất đúng. Nhưng kinh nghiệm cho bạn biết rằng không phải mọi kẻ ác sẽ cứ thoải mái như thế luôn hay các nhà tù đều sẽ trống rỗng đâu. Đường lối của kẻ vi phạm là con đường khó nhọc, và ngày nay luôn luôn đúng như thế.
2. Bỏ Đức Chúa Trời ở ngoài quỹ đạo.
Kinh thánh không hề phủ nhận rằng kẻ ác cứ mãi thịnh vượng. Hêbơrơ 11 nói tới việc “tạm hưởng sự vui sướng của tội lỗi” (Hêbơrơ 11:25). Người ta phạm tội vì họ thích như thế. Nhưng đấy chẳng phải là cứu cánh của câu chuyện đâu. Miếng cắn đầu tiên nơi trái cấm có thể nếm là ngọt ngào lắm, song cuối cùng thì chẳng là gì hết ngoài sự cay đắng.
3. Quên phứt về đời sống hầu đến. Đây là cái nhìn sâu sắc đã đưa Asáp trở lại với ý thức của mình. Đức Chúa Trời đã ấn định một ngày phán xét cho toàn thể dòng giống con người, và chẳng một người nào sẽ tránh thoát. Ngay cả trong đời nầy, kẻ ác thường bị hình phạt, nhưng ai có thể tránh khỏi việc bước vào cõi đời đời để gặp Đức Chúa Trời của công lý, là Đấng biết rõ mọi sự. "Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét” (Hêbơrơ 9:27). Dường như Asáp rơi xuống tận đáy ở các câu 13-14: “Tôi đã làm cho lòng tôi tinh sạch, và rửa tay tôi trong sự vô tội, việc ấy thật lấy làm luống công, vì hằng ngày tôi phải gian nan, mỗi buổi mai tôi bị sửa phạt”. Hết thảy chúng ta đều cảm thấy như thế không lần nầy thì cũng lần khác. “Lạy Chúa, nếu đây là cách Ngài đối xử với bạn bè của Ngài, con sẽ là kẻ thù của Ngài rồi. Thực vậy, dường như họ sống còn tốt hơn cả con nữa đấy”. Ông không phải là mục tiêu, nhưng ông hoàn toàn sống chân thật với Đức Chúa Trời.
Cách đây nhiều năm, khi tôi dạy dỗ phân đoạn Kinh thánh nầy, tôi đã liệt kê ra hết thảy những ai mới qua đời trong hội chúng của chúng tôi. Một chiến binh cầu nguyện rất đáng yêu, một cấp lãnh đạo trung tín chương trình Awana, một người cha đã chết quá sớm, một người mẹ mới chết, người cha khác đã qua đời khi còn trẻ. Khi nhìn vào phần chú thích của tôi, tôi thấy mình đã ghi chú ở cuối trang (và tô sáng câu nói ấy): “Còn có gì nữa không?” Thỉnh thoảng hết thảy chúng ta đều cảm thấy theo cách ấy.
II. Đức tin tìm được một giải đáp (các câu 15-28).
Asáp đến với giải đáp đúng đắn ở các chặng đường. Thứ nhứt, ông nhìn thấy có một số việc không nên nói khơi khơi với người khác. "Nếu tôi có nói rằng: Ta sẽ nói như vậy; Ắt tôi đã phạm bất trung cùng dòng dõi con cái Chúa" (câu 15). Không phải từng điều hồ nghi cần phải đem chia sẻ với mọi người đâu. Có lúc chúng ta cần phải thốt ra nhiều việc, song khi chúng ta thốt ra, chúng ta nên tìm hạng người khôn ngoan hiểu biết, và nếu cần thiết, phải xem lại một số điều mà chúng ta cần nói. Tôi luôn thành thực với người khác, nhưng có một lằn ranh giữa thành thực và “nói khơi khơi”. Chia sẻ bừa bãi có thể làm tổn thương một số con cái của Đức Chúa Trời, họ không cần phải nghe nói về những điều chúng ta hồ nghi khi đang có đủ rối rắm trong cuộc sống của chính họ rồi.
Phần lớn thời gian chúng ta không hiểu lý do tại sao có nhiều việc xảy ra theo như chúng đang xảy ra. Tại sao một người nầy ngã chết, còn người kia thì sống? Tại sao một người gian ác giàu lên trong khi có người rất tin kính lại lâm vào nghèo khó? Tại sao cuồng phong hủy diệt ngôi nhà nầy còn ngôi nhà kế bên thì không sao? Làm thế nào mà gã kia không bị bắt vì đang lừa đảo trong khi người kia tuân theo quy định mà lại mất việc làm? Những thắc mắc nầy (và hàng triệu thắc mắc khác giống như thế) không bao giờ được giải đáp đầy đủ ở mặt nầy của thiên đàng.
Thứ hai, ông ra đúng chỗ để tìm một giải đáp. Chúng ta nhìn thấy điểm xoay chiều ở câu 17: “Cho đến khi tôi vào nơi thánh của Đức Chúa Trời, suy lượng về sự cuối cùng của chúng nó". Trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, chúng ta nhìn thấy mọi việc rất là khác biệt. Ngày kia, tôi đang đọc một bài viết nói về sự thờ phượng, tác giả đưa ra một điểm mà tôi chưa hề xem xét trước đó. Dường như chẳng có gì thực sự phản văn hóa khi người ta nhóm lại để ca hát ngợi khen Đức Chúa Trời. Nếu thờ lạy dường như không cực đoan với chúng ta, sở dĩ như thế là vì chúng ta bị mê mẫn với quyền lực của nó. Trong Đế quốc Lamã, các Cơ đốc nhân đầu tiên đôi khi bị vu cáo về tình trạng vô thần vì họ đã thờ lạy một Đức Chúa Trời mà họ không thể thấy được. Họ chẳng có một hình tượng nào hết, họ chẳng dâng một thứ của lễ nào cả. Khi họ nhóm lại, họ ca hát và cầu nguyện, lắng nghe Ngôi Lời được đọc lên, và dự Tiệc Thánh. Thờ lạy như thế thì chẳng giống với nhiều người khác thờ lạy, sự thờ lạy đó dường như là dị giáo, nguy hiểm, và vô thần. Nhiều tiếng đồn đại lan rộng về “các môn đồ Đấng Christ” nầy, họ đã thờ lạy một nhân vật bị đóng đinh trên thập tự giá và rồi đã sống lại từ kẻ chết.
Lố bịch!
Vô lý!
Ai dám tin một việc như thế chứ?
Vậy, điều chi xảy ra khi chúng ta thờ phượng? Khi Giám mục William Temple tìm cách định nghĩa sự thờ phương, ông đã viết một câu rất quan trọng và rất hay:
Thờ phượng là nhen lại lương tâm bởi sự thánh khiết của Đức Chúa Trời, Trưởng dưỡng tâm trí với lẽ thật của Đức Chúa Trời, Gột rửa trí tưởng tượng bằng vẻ oai nghi của Đức Chúa Trời, Mở lòng ra với tình yêu của Đức Chúa Trời, Dâng ý chí cho mục đích của Đức Chúa Trời. Mọi sự ấy hoàn toàn là phản văn hóa. Bạn không nhận được điều đó do theo dõi kênh Fox News hay ESPN hoặc do theo dõi chương trình American Idol đâu. Hãy đến để suy nghĩ về việc ấy, bạn không nhận được điều đó trong các trường đại học lớn của thế gian. Đại học đường Cambridge và Harvard có thể hướng dẫn bạn cách suy nghĩ ở một cấp độ cao, nhưng nếu bạn muốn thờ phượng, bạn cần phải bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
Tác giả của bài viết nói rằng chúng ta phải sử dụng các buổi thờ phượng của chúng ta để sửa soạn dân sự trở thành các đại biểu phản văn hóa của Vương quốc Đức Chúa Trời. Ông đã đúng một cách chính xác. Bởi sự cầu nguyện, bởi âm nhạc và bởi truyền thống đã chuyền xuống cho chúng ta, bởi chức vụ của Ngôi Lời, bởi phép báptêm và Tiệc Thánh, qua mối tương giao và sự khẳng định, bởi các tín điều và bởi ca đoàn, bất kể bối cảnh và phong cách, từng buổi thờ phượng cần phải trở thành bài học quan trọng để dạy dỗ dân sự của chúng ta: “Chúng ta không sống như thế gian. Chúng ta là hạng người như thế. Đây là lý do tại sao chúng ta tồn tại. Đây là những gì chúng ta tin. Đây là cách thức chúng ta sống”. Và vì áp lực của thế gian thường xuyên như thế trên chúng ta, chúng ta phải sử dụng từng cơ hội trong sự thờ phượng để làm cho họ những gì sự thờ phượng đã làm cho Asáp.
Sự thờ phượng đưa ông trở lại với mọi nhận thức của mình.
Sự thờ phượng giúp ông nhìn thấy những gì ông đã bỏ sót. Trên vùng đất trơn trợt
Thứ ba, ông đã nhìn thấy sự cuối cùng của kẻ ác và đấy chẳng phải là một cảnh đẹp mắt đâu (các câu 18-20).
Họ đang ở trên vùng đất trơn trợt.
Họ sẽ bị quăng xuống rồi thình lình bị hủy diệt.
Họ sẽ bị kinh khiếp quét sạch.
Họ sẽ biến mất khỏi đất.
Sứ điệp của Đức Chúa Trời là: “Tại sao bạn ganh tỵ với kẻ ác chứ? Họ sẽ tụt hậu!”
Họ không nhận biết điều đó.
Họ không nhìn thấy điều đó.
Họ không tin điều đó.
Nhưng Đức Chúa Trời đã phán và Lời của Ngài không thể luống nhưng đâu. Kẻ ác sẽ đến với một tận cùng tồi tệ. Họ sẽ không cười nổi, không cổ vũ và không thưởng thức những ly cocktail và cuộc sống cao cấp của họ, và họ sẽ không làm giàu từ những gian lận của họ trong ngày ghê khiếp kia. Trong chốc lát, dường như họ có lối sống ấy đấy. Nhưng chẳng bao lâu nữa thì ngày phán xét sẽ đến.
Chúng ta có thể nói ba điều về số phận tối hậu của họ:
Sự phán xét của họ là thình lình và bất ngờ. Sự hủy diệt họ là hoàn toàn và không thể đảo ngược.
Cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời là cá nhân và không thể tránh được.
Bạn có muốn đổi chỗ với họ không? Vào năm 1719, Isaac Watts đã cho in một phiên bản theo thể thơ của Thi thiên 73. Khi ông đến với phần nầy của Thi thiên, ông viết mấy lời nầy:
Ở đó, giống như tấm kính tiên tri,
Tôi nhìn thấy bàn chơn của tội nhân
Đang leo lên cao ở nơi trơn trợt,
Bên cạnh cái hố sâu khủng khiếp.
Tôi nghe thấy lời báng bổ kiêu ngạo,
Cho tới khi hắn cau mày té ngã;
Vinh quang hắn lạc mất trong chiêm bao,
Rồi hắn tỉnh thức trong địa ngục.
(Nếu bạn muốn nghe ý tưởng nầy theo phương thức hiện đại, hãy xem cuộn video nầy nói tới bài hát của Johnny Cash Gods Gonna Cut You Down. Asáp và Isaac Watts và Johnny Cash đang thốt ra cùng một sự việc). Các hình ảnh nổi bật nầy buộc chúng ta phải đến với phần kết luận quan trọng. Đức Chúa Trời một cách cá nhân chối bỏ kẻ ác. Vì họ chẳng có thì giờ dành cho Ngài, Ngài gửi họ đến địa ngục cho đến đời đời. Ngay bây giờ họ đang đứng trên vùng đất trơn trợt, nhưng không bao lâu nữa cửa sập sẽ mở toang và họ lọt xuống đó. Điều nầy nhắc tôi nhớ đến lời lẽ của Chúa Jêsus nói với những kẻ giả hình tôn giáo. Một ngày kia, Ngài sẽ phán với họ: “Ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi ta!” (Mathiơ 7:23).
Thứ tư, ông thấy mình rất dại dột. “Khi lòng tôi chua xót, và dạ tôi xôn xao, thì bấy giờ tôi ở ngu muội, chẳng hiểu biết gì; Trước mặt Chúa tôi ở khác nào một thú vật vậy” (các câu 21-22). Sự ăn năn thật giống với điều nầy. Ăn năn công nhận tội lỗi, gọi nó đích danh, đến với tận gốc rễ của vấn đề, và công nhận lẽ thật. Một bản dịch chép: “Tôi hoàn toàn dốt nát, một con bò câm trước sự hiện diện của Ngài”. Sự thể ấy nói lên đúng sự việc.
Ganh tỵ và cay đắng làm đồi bại tấm lòng là dường nào! Chúng làm cho chúng ta rơi vào chỗ vô cảm và dốt nát, chẳng khác gì hơn loài súc vật.
Đức Chúa Trời là phần của chúng ta cho đến đời đời Thứ năm, ông kiếm được một nhận định mới về Đức Chúa Trời. Ở một khoảnh khắc cao độ của Cựu Ước, Asáp nhìn tới trước một ngày khi ông sẽ được ở với Đức Giêhôva cho đến đời đời:
“Song tôi cứ ở cùng Chúa luôn luôn: Chúa đã nắm lấy tay hữu tôi. Chúa sẽ dùng sự khuyên dạy mà dẫn dắt tôi, rồi sau tiếp rước tôi trong sự vinh hiển. Ở trên trời tôi có ai trừ ra Chúa? Còn dưới đất tôi chẳng ước ao người nào khác hơn Chúa. Thịt và lòng tôi bị tiêu hao; Nhưng Đức Chúa Trời là sức lực của lòng tôi, và là phần tôi đến đời đời” (các câu 23-26). Đây là sự bảo hộ cá nhân của người tin Chúa:
Trong quá khứ Ngài đã nắm lấy tay tôi.
Trong hiện tại, Ngài dẫn dắt tôi bằng sự khuyên dạy của Ngài.
Trong tương lai, Ngài sẽ đưa tôi vào trong sự vinh hiển.
Kẻ ác có gì đáng sánh với điều nầy? Điều gì có thể tương xứng với sự hiện diện riêng tư của chính mình Đức Chúa Trời? Thật là giá trị dường bao khi biết rõ một ngày kia bạn sẽ ở với Chúa trong sự vinh hiển?
Trong bài giảng của ông về Thi thiên 73, Robert Rayburn trình bày như sau:
Sự giàu có của kẻ ác chẳng có ý nghĩa chi hết. Họ chẳng có gì hết. Không có Đức Chúa Trời, không có sự tha thứ, không có thiên đàng, họ chẳng có chi hết. Với Đức Chúa Trời, chúng ta có mọi sự và luôn luôn có mọi sự, bất luận mọi hoàn cảnh bên ngoài của đời sống chúng ta có như thế nào đi nữa.
Là một Cơ đốc nhân khi bạn qua đời là một việc rất quan trọng.
Nếu bạn nhận biết Chúa Jêsus, phước hạnh tốt nhứt rồi đây sẽ đến.
Có phải bạn ganh tỵ với kẻ ác chăng? Dại dột làm sao, thiển cận làm sao! Họ giống như rơm rác gió thổi bay đi. Hãy để cho họ có những món nữ trang và đồ trang sức. Hãy để cho họ có khoảnh khắc ngắn ngủi của họ ở dưới mặt trời. Đối với kẻ ác địa cầu nầy là thiên đàng duy nhứt mà họ từng nhìn biết. Đối với người công bình địa cầu nầy là địa ngục duy nhứt mà chúng ta từng chịu đựng.
Cuối cùng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng chẳng có gì trên đất hay trên trời đáng ao ước hơn là Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể qua đời nhưng ngay cả sự chết bản thân nó không thể làm phân cách mối giao thông của chúng ta với Đức Chúa Trời vì mối tương giao ấy vốn an toàn giống như chính mình Đức Chúa Trời vậy. Bao lâu Đức Chúa Trời còn ngự trị trên thiên đàng của Ngài, chúng ta sẽ ở với Ngài trong sự vinh hiển. Không một kẻ ác nào có thể tước điều đó khỏi chúng ta.
Khi chúng ta đặt sự vinh hiển hầu đến lên cán cân đời đời, sự thịnh vượng mau qua của kẻ ác sẽ chẳng là gì cả. Mượn một câu của Mục sư Jonathan Edwards: “Người tin kính có phần tốt hơn mặc dầu mọi sự họ có là Đức Chúa Trời”.
Thứ sáu, ông nhìn thấy sự khác biệt quan trọng giữa người công bình và kẻ ác (các câu 27-28). Chúng ta sẽ đi theo các hướng khác nhau. Kẻ ác một ngày kia sẽ hư mất trong địa ngục, còn người công bình nhìn biết Đức Chúa Trời lúc bây giờ và sẽ ở với Ngài cho đến đời đời.
Cho phép tôi đưa ra một số kết luận và chúng ta hãy để ý:
1. Trong đời nầy, kẻ ác đôi khi thịnh vượng trong khi người công bình dường như gánh chịu đau khổ.
2. Bao lâu chúng ta chơi trò so sánh, đời sống của chúng ta sẽ bị đầy dẫy với ganh tỵ, giận dữ và thất bại.
3. Người nào quên Đức Chúa Trời trong đời nầy một ngày kia sẽ khám phá ra rằng mọi sự họ dồn chứa sẽ thình lình bị hủy diệt.
4. Người nào bám lấy Đức Chúa Trời trong những lúc chao đảo sẽ thấy rằng Ngài là đủ cho đời nầy và cho đời hầu đến.
5. Một khi Đức Chúa Trời còn hơn là đủ nữa, khi chúng ta bị cám dỗ đến thất vọng, chúng ta hãy công bố sự đầy dẫy của Đức Chúa Trời cho bất cứ ai chịu lắng nghe.
6. Đức Chúa Trời ban sự thịnh vượng cho kẻ ác vì đấy là mọi sự mà họ sẽ nhận được.
7. Ngài ban cho chúng ta bàn tay dẫn dắt của Ngài qua những khó khăn vì mọi sự sẽ đi tới chỗ tốt hơn cho những ai yêu mến Chúa.
Thi thiên 73 nhắc cho chúng ta nhớ rằng đôi khi chúng ta cảm thấy đức tin của mình trượt ngã đi. Tôi đã bắt đầu bài giảng với một câu rất đơn giản: “Có bao giờ bạn thôi không tin Chúa nữa không?” Nhiều người sẽ trả lời “yes” cho câu hỏi ấy. Tôi không nghĩ giận dữ hay bối rối là sai với mọi việc đang xảy có ở chung quanh bạn. Đôi khi cuộc sống dường như rối reng đến nỗi bạn phải nhìn lên trời rồi nói: “Còn gì nữa không?” Chống lại mọi sự ấy, chúng ta có câu nói đầu tiên của Asáp phải xem xét: “Đức Chúa Trời thật đãi Y-sơ-ra-ên cách tốt lành” (câu 1). Nếu chúng ta có thể thốt ra câu nói đó, mặc dầu có nước mắt, mọi thắc mắc, mọi hồ nghi của chúng ta, khi ấy chúng ta sẽ kết thúc với đúng chỗ.
Clovis Chappell nói rằng ở bờ Tây của nước Anh có ngôi mộ của một người được yêu mến nhiều bởi mọi người quen biết ông. Khi ông qua đời, lời lẽ nầy được khắc trên mộ bia của ông: “Đây là một người lấy làm thỏa mãn với Chúa Jêsus”. Câu ấy có thể nói cho bạn không? Câu ấy có thể nói về tôi không?
Đức tin chọn tin rằng Jêsus là Chúa trên từng phần của cuộc sống, ngay cả những phần chẳng có ý nghĩa gì trong khoảnh khắc. Hãy biến Ngài thành vầng đá, nền tảng chắc chắn của bạn, thì bạn sẽ chẳng bao giờ bị lạc trôi.