Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012

Xuất Êdíptô ký 20:3: "Chớ Có Các Thần Khác"



Chớ Có Các Thần Khác

– Xuất Êdíptô ký 20:3

            Chúng ta đang sống trong thời kỳ rất lạ, có phải không? Một nghiên cứu của viện Gallup mới đây cho thấy rằng 84% người Mỹ tin rằng Mười Điều Răn là kim chỉ nam rất thích đáng cho cuộc sống. Rất là khích lệ khi biết như thế, cho tới chừng bạn nhận ra rằng có nghiên cứu khác chỉ ra 30% con số ấy đọc đúng danh xưng của 3 trong 10 Điều Răn.
            Vì vậy, trước khi chúng ta đi xa hơn, bạn có thể đọc được bao nhiêu điều răn? Hãy điền vào khoảng trống dưới đây với một từ hay cụm từ tóm tắt từng Điều Răn:
Điều Răn Thứ Nhứt:
Điều Răn Thứ Nhì:
Điều Răn Thứ Ba:
Điều Răn Thứ Tư:
Điều Răn Thứ Năm:
Điều Răn Thứ Sáu:
Điều Răn Thứ Bảy:
Điều Răn Thứ Tám:
Điều Răn Thứ Chín:
Điều Răn Thứ Mười:
            Trong nhiều thế hệ, Mười Điều Răn được xem là phần tiêu chuẩn của nền giáo dục tốt đẹp của người Mỹ. Trẻ em học đọc thuộc lòng hết thảy 10 Điều Răn — chúng thuộc từ lâu trước khi chúng khởi sự đến trường. Nếu vì lý do nào đó chúng không thuộc, những bài thơ như sau đây được sử dụng để giúp cho chúng mau nhớ:
Chớ có thần nào khác trừ ra Ta
Chớ có quì gối xuống trước hình thượng nào
Đừng lấy danh Đức Chúa Trời mà làm chơi
Không dám phạm thượng trong ngày sa-bát
Biết hiếu kính đối với cha mẹ
Đừng nghĩ tới việc giết người
Tránh xa bất cứ thứ chi là ô uế
Mặc dù nghèo, cũng không nên trộm cắp
Cũng đừng nói dối mà chi
Đừng tham những gì thuộc về người lân cận mình
(Quoted in Leslie Flynn, Now a Word From Our Creator, p. 9)

Tai Họa Ở Kentucky

            Thực tại rất đáng buồn, ấy là phần lớn trẻ em  Mỹ lớn lên mà chẳng biết gì về 10 Điều Răn. Cách đây mấy năm, Tòa Thượng Thẩm đặt ra một điều luật trái với hiến pháp ở Kentucky đòi hỏi 10 Điều Răn phải được gắn trong các lớp học của trường công. Một đạo luật như thế là vi phạm Điều Răn Thứ Nhứt vì không nhất thiết nó sẽ làm cho cả nhà thờ và nhà nước phải bối rối. Lời bình chính xác nhất đối với quyết định đó, ấy là người nào viết ra hiến pháp sẽ hoàn toàn kinh ngạc bởi quyết định đó. Họ cho rằng tất cả trẻ em trong từng lớp học sẽ học 10 Điều Răn bởi vì chúng xem việc học tập của chúng đặt trên nền tảng lịch sử hợp pháp lần ngược về lại Núi Sinai. Sử dụng hiến pháp chống lại 10 Điều Răn dường như có vẻ buồn cười đối với chúng. Không may, chúng ta đang sống trong thời buổi mà buồn cười đã trở thành luật lệ của xứ sở.

I. Tại sao phải nhức nhối với 10 Điều Răn chứ?

            Chúng ta bắt đầu phần nghiên cứu về 10 Điều Răn là lần ngược lại nền tảng chung — được công nhận bởi người Do thái cũng như Cơ đốc nhân là bộ luật đạo đức quan trọng nhất từng được ban ra cho nhân loại. Là bước thứ nhứt, một thắc mắc cơ bản in ngay trong trí: “Tại sao phải nhức nhối với 10 Điều Răn chứ?”
            Từng Cơ đốc nhân đều thắc mắc như thế. “Chúng ta không ở dưới luật pháp, có phải không?” “Đừng đưa cho tôi bộ luật của Cựu Ước mà chi” “Ừ! Tôi nhớ có học thuộc lòng 10 Điều Răn khi còn nhỏ cơ”.
            Đối với những ai không biết về 10 Điều Răn, hay đối với người nào biết và nghĩ chúng chẳng ăn nhập gì hết, cho phép tôi đưa ra ba câu trả lời cho thắc mắc ấy: “Tại sao phải nhức nhối?”

A. Chúng Cung Ứng Một Tiêu Chuẩn Khách Quan Về Đúng Và Sai.

            Nếu chúng ta chẳng có một cớ nào khác để nghiên cứu 10 Điều Răn, bấy nhiêu đây là đủ rồi. Chúng ta đang sống trong một thời buổi khi chính khái niệm đạo đức khách quan đang bị thắc mắc. “Có thể việc ấy là đúng cho bạn, nhưng làm sao tôi biết chắc là đúng cho tôi chứ?” Một khi khái niệm về tiêu chuẩn tuyệt đối bị vứt bỏ, khi ấy chẳng có gì khác hơn chủ nghĩa mơ mộng lý tưởng [idealism] ("Chúng ta là thế giới” [We are the world]) hay thực dụng bủn xỉn chủ nghĩa [pragmatism] ("có thể cho là đúng") hay chủ nghĩa dân túy dân chủ [democratic populism] ("luật đa số") hay hình thái phát triển tầng lớp ưu tú trong xã hội theo chế độ kỹ trị [technocratic elitism] ("Tôi có học. Hãy để cho tôi lập luật").
            Có người cho rằng kể từ khi khởi sự thời gian, con người đã thông qua 35 triệu điều luật. Làm sao chúng ta biết chắc luật nào có giá trị và luật nào là không? Để trả lời cho câu hỏi đó, bạn cần một tiêu chuẩn khách quan, nhơn đó đánh giá đúng và sai. Chúng ta sẽ đi đâu để tìm ra một tiêu chuẩn như thế?
            Chỉ có ba câu trả lời cho câu hỏi ấy.
1. Cảm xúc của con người. (thí dụ, câu nói “Làm sao việc ấy lại là sai khi cảm giác cho thấy là đúng?" của Debbie Boone).
2. Phiếu đa số. (thí dụ. “Làm sao sai được một khi 55% dân chúng bỏ phiếu tán thành chứ?")
         Vấn đề với hai câu trả lời đầu tiên, ấy là cảm xúc thay đổi và đa số thường thay đổi vị trí của nó. Thế là chúng ta bị bỏ lại với “bãi cát” thuyết đạo đức tương đối đầy biến động và bất ổn. Và chúng ta sẽ làm gì nếu cảm xúc của chúng ta tranh đấu với những điều chúng ta tin quyết? Khi ấy thì ai đúng chứ? Nếu chúng ta nói điều chi là “đúng” cho bạn có thể là “không đúng” cho tôi, há chúng ta đã không thốt ra điều chi có ý nghĩa thực sự chăng? Cũng một ý nghĩa ấy, phá thai là “sai” cho tới chừng Toà Thượng Thẩm nói phá thai là “đúng”, ở chỗ nầy người nào chống phá thai sẽ “sai” về mặt đạo đức, bản thân họ sẽ “sai” vì chống đối một sự việc mà Toà Án giờ đây tuyên bố là “đúng”. Đúng và sai chẳng khác gì hơn những cụm từ tình cảm thiếu bất kỳ ý nghĩa khách quan nào.
         Mọi sự ấy chỉ cho chúng ta thấy câu trả lời thứ ba và sau cùng cho thắc mắc: “Chúng ta sẽ tìm ở đâu một tiêu chuẩn bởi đó chúng ta có thể đánh giá đúng và sai?”
3. Chúng ta cần một tiêu chuẩn tuyệt đối — một tiêu chuẩn không thay đổi và không thể thay đổi. Tiêu chuẩn ấy phải là — và chỉ có thể là — Đức Chúa Trời.
            Archimedes đđã nói: “Hãy cho tôi một đòn bẫy đủ dài, và một chỗ để đứng, thì tôi sẽ dời thế gian đi”. Đòn bẫy đủ dài thì không phải là vấn đề; chúng ta cần một “chỗ để đứng”. Nếu bạn muốn di dời thế gian, bạn phải đứng ở ngoài thế gian. Đấy là nan đề với việc sử dụng cảm xúc của con người và luật đa số làm cơ sở để quyết định đúng và sai. Chúng sẽ không bao giờ cung ứng được một “chỗ đứng” an toàn. Bạn cần một việc gì đó — hay một người — chính mình người ấy đang đứng ở ngoài thế gian. Đấng đó chỉ có thể là chính mình Đức Chúa Trời mà thôi.

Ted Koppel về 10 Điều Răn

            Cách đây mấy năm, Ted Koppel (thuộc đài ABC) đã phát ra bài diễn văn mở đầu tại Đại học đường Duke. Hãy lắng nghe cách thức ông mô tả ảnh hưởng đạo đức của vô tuyến truyền hình về văn hoá Mỹ:
            Hãy mở xem chương trình MTV hay Nước Mỹ Buổi Sáng rồi nhìn thấy những hình ảnh và ý tưởng chớp nhanh theo cách khai vị rất ấn tượng. Không, chẳng có nhiều chỗ trên truyền hình cho tình trạng phức tạp. Bạn có thể dự phần vào bàn tiệc hàng ngày của chúng tôi mà chẳng cần phải động não nhiều, không cần cả kỷ luật về thể xác hay đạo đức chi hết. Chúng tôi chẳng đòi hỏi chi nơi bạn, chỉ cần bạn nhìn xem thôi, hay nói rằng bạn đang xem một khi đại diện của Ông Nielsen xuất hiện để kêu mời. Rồi dần dần, cần phải nói là, chúng ta đang bắt đầu ghi dấu của mình trên dân chúng Mỹ. Bản thân chúng ta thực sự tin chắc rằng những khẩu hiệu sẽ cứu chúng ta: “Hãy chích đi nếu bạn muốn, song hãy sử dụng kim tiêm sạch” “Hãy tận hưởng tình dục bất cứ lúc nào và với bất cứ ai bạn muốn, nhưng hãy dùng bao cao su”.
            Chắc chắn là chúng ta đồng ý với mọi khẩu hiệu đó, song Ted Koppel không dừng lại ở đó. Hãy lắng nghe mấy câu kế tiếp của ông:
            Không. Câu trả lời là không. Không phải vì nó không mát mẻ hay thông minh đâu hoặc vì bạn sẽ kết thúc ở trong tù hay chết với chứng bịnh AIDS, nhưng không, vì nó sai trật. Vì chúng ta đã sử dụng 5.000 năm như một cuộc đua hợp lý hóa, con người đang ra sức tự kéo mình ra khỏi chất nhờn nguyên sinh bằng cách tìm kiếm chân lý và những điều đạo đức tuyệt đối. Trong vị trí của chân lý, chúng ta khám phá ra nhiều sự thực; về những thứ đạo đức tuyệt đối, chúng ta đã thay thế bằng sự mơ hồ về mặt đạo đức. Giờ đây chúng ta đang truyền đạt với mọi người và chẳng nói điều gì là tuyệt đối hết.
            Nhưng bấy nhiêu đó vẫn chưa phải là phần kết phân tích của ông ta. Vậy thì đâu là câu trả lời? Chúng ta tìm chân lý nào đứng vững với thử thách của thời gian ở đâu chứ?
            Xã hội chúng ta đang tìm kiếm chân lý nơi thuốc men mạnh đến nỗi không sao tiêu hóa được. Trong hình thức tinh khiết nhất của nó, chân lý không phải là cái vòi nước lịch sự vác trên vai; mà nó là sự quở trách đang thét gào kia. Những gì Môise mang xuống từ trên Núi Sinai không phải là 10 Đề Nghị; chúng là 10 Điều Răn. Là, chớ không phải đã là. Vẻ đẹp tuyệt đối của 10 Điều Răn, ấy là chúng là những dòng chữ xác định cách xử sự đáng chấp nhận của con người, không những cho khi ấy hay bây giờ, mà cho mọi thời đại. (Duke University Alumni Magazine, p. 36, n.d.)
            Tin tưởng một nhân vật người Mỹ nào dám nói như thế thật là khó. Song Ted Koppel nói đúng. “Trong chỗ của chân lý, chúng ta khám phá ra những sự thực; còn những điều đạo đức tuyệt đối, chúng ta đã thay thế bằng sự mơ hồ về mặt đạo đức”. Câu trả lời? 10 Điều Răn, đang (chớ không phải đã!) vững chắc cho đến đời đời.

Đức Chúa Trời đã phán ra mọi lời nầy

            Và điều đó đưa chúng ta đến với Xuất Êdíptô ký 20:1, lời nói đầu thường bị đọc lướt qua, cho 10 Điều Răn: “Bấy giờ, Đức Chúa Trời phán mọi lời nầy”. Trong nổ lực để có được “công cụ tốt”, chúng ta chạy ngay tới lời lẽ nầy giống như thể chúng là một loại thông báo bản quyền xa xưa vậy. Chúng ta lật qua các trang tiêu đề để đến với chương đầu tiên. Nhưng đấy là một sai lầm rất quan trọng vì lời lẽ nầy chỉ ra Đấng đang phán dạy.
            “Bấy giờ, Đức Chúa Trời phán mọi lời nầy”    Ai đang phán ở đây chứ? Đức Chúa Trời!
            Ngài phán điều chi vậy? “Mọi lời nầy”.
            Vậy, 10 Điều Răn đến từ đâu chứ? Đức Chúa Trời!
            Đây không phải là “10 Đề Nghị cho một đời sống tốt hơn” hay “Mười phương thức bạn nên xem xét” hoặc “Mười Thói Quen của hạng người thành công cao độ” hay “Mười cách để leo lên nấc thang” hoặc “Mười ý tưởng có ích cho bạn”. Không!
            Đức Chúa Trời phán mọi lời nầy — vì lẽ đó, chúng có thẩm quyền về đạo đức.
            Đức Chúa Trời phán mọi lời nầy — vì lẽ đó, chúng ta không lấy làm lạ về mọi dự tính của Ngài.
            Đức Chúa Trời phán mọi lời nầy — vì lẽ đó, chúng ta phải xem trọng chúng.
            Đức Chúa Trời phán mọi lời nầy — vì lẽ đó, chúng ta phải dành sự chú ý vào mấy lời nầy.
            Vậy thì, chúng ta tìm được gì khi chúng ta đến với 10 Điều Răn? Sau cùng, đây là tiêu chuẩn khách quan cho đúng và sai. Sau cùng, đây là “chỗ đứng” của chúng ta, trên đó chúng ta có thể đưa ra những xét nét về đạo đức sao cho thích ứng. Sau cùng, đây là một bộ nguyên tắc về đạo đức chung.
            — Chúng không bao giờ bị hủy bỏ.
            — Chúng không hề bị vượt qua.
            — Chúng vững chắc hôm nay cũng như chúng vững chắc cách đây 3.000 năm.
            (Có lý do thứ hai cho thấy tại sao chúng ta phải chú ý vào 10 Điều Răn).

B. Chúng quy định cách ứng xử của Cơ đốc nhân.

            Ở điểm nầy, chúng ta bước vào một bãi mìn thần học. Theo ý nghĩa nào thì 10 Điều Răn quy định cách ứng xử của Cơ đốc nhân? “Thưa Mục sư, tôi nghĩ chúng ta không nên ở dưới luật pháp”. Bạn nói đúng. Chúng ta không “ở dưới” luật pháp mà “ở dưới” ân điển. Nhưng hãy chú ý câu kế tiếp cho cẩn thận: “Ở dưới” ân điển không hủy bỏ được 10 Điều Răn.
            Cho phép tôi trình bày rõ vấn đề như tôi có thể. Chúng ta không được cứu bằng cách giữ 10 Điều Răn. Tôi nghĩ Phaolô đang ổn định vấn đề rõ ràng trong sách Rôma. Không một người nào sẽ được lên thiên đàng bằng cách tuân giữ 10 Điều Răn vì chẳng có ai có thể giữ chúng một cách trọn vẹn được!
            Nhưng đấy mới chỉ là phân nữa của câu chuyện. Mặc dù chúng ta không được cứu bởi 10 Điều Răn, chúng ta được giữ thật an toàn bởi chúng.
            Cho phép tôi minh họa: Giả sử rằng ở vùng núi Colorado, một cơn bão khủng khiếp quét sạch một cây cầu hẹp bắc ngang qua một dốc thật đứng. Một du khách có mặt dọc đường lúc nửa đêm nhìn thấy điều chi đang xảy ra rồi dựng lên một tấm bảng hướng dẫn: “Cầu sập rồi! Nguy hiểm!” Một giờ đồng hồ sau, có một người chạy đến và đang trong tình trạng say xỉn. Suy nghĩ các dấu hiệu làm bằng tay là một trò đùa, ông ta cứ lái xe vào khúc quanh chỉ để khám phá ra quá trễ, cây cầu đã sập rồi, ông ta lao xe vào rặng đá bên dưới mà chết. Tại sao ông ta chết? Ông ta chết vì ông ta bất chấp tấm bảng hướng dẫn cảnh báo kia.
            10 Điều Răn giống như tấm bảng cảnh báo đó. Chúng là cách loan báo của Đức Chúa Trời: “Cảnh báo! Nguy hiểm ở trước mặt! Cầu sập rồi!” Chúng ta bất chấp chúng, thì chúng ta sẽ bị hư mất ngay.
            Cậu bé kia trở về nhà từ Lớp Trường Chúa Nhật tung tăng với sự phấn khích. Mẹ nó hỏi: “Con học được gì hôm nay?” “Mẹ ơi, hay lắm đấy. Chúng con học hết về 10 Tay Biệt Kích [commandos]!” Nó nói đúng! 10 Điều Răn [commandments] thực sự là 10 Tay Biệt Kích của Đức Chúa Trời, họ giữ an ninh cho chúng ta rồi chỉ con đường dẫn tới phước hạnh.
            Và điều đó đưa tôi đến lý do thứ ba mà chúng ta đáng phải nghiên cứu 10 Điều Răn.

C. Chúng chỉ ra bản đồ dẫn đường đến phước hạnh của Đức Chúa Trời.

            Dường như là linh tinh khi nối kết 10 Điều Răn với tình trạng phước hạnh một khi 8 đến 10 điều răn được trình bày theo cách tiêu cực: “Người chớ … ngươi chớ … ngươi chớ … ngươi chớ …”. Có người đọc thấy rồi suy nghĩ rằng có lẽ Đức Chúa Trời không có cảm giác về hài hước, rằng Ngài là một cụ già thành kiến ngồi trên chiếc ghế bành trên trời chỉ lo tìm kiếm một cơ hội để quăng tia sét xuống và nướng khô một tội nhân.
            Đâu đó tôi đọc câu chuyện kể về một biên tập viên báo chí, ông ta bảo các phóng viên phải viết lại 10 Điều Răn. Sau một vài phút, phóng viên kia trở lại với một từ viết bằng chữ hoa trên tờ giấy: DON’T [CHỚ]! Và đấy là hình ảnh của họ về Đức Chúa Trời — "Chớ, chớ, chớ, chớ làm điều nầy, chớ làm điều kia, chớ có vui đùa, chớ tận hưởng cuộc sống, nếu ngươi tận hưởng, có lẽ là sai lầm đấy”. Người ta nghĩ rằng một Đức Chúa Trời yêu thương sẽ không bao giờ nói “chớ”!

Yêu thì không nói “chớ”!

            Không một điều gì xa vời hơn đối với sự thật. Nếu bạn yêu ai đó, bạn sẽ yêu họ đủ đến nói “no” [chớ]! Cách đây mấy ngày, có thanh niên kia đến gặp vị Mục sư đặc trách thanh niên là Bob Boerman. Anh ta nói cho Mục sư Bob biết một trong các lý do anh ta không muốn trở thành Cơ đốc nhân, ấy là Cơ đốc giáo là một tôn giáo tiêu cực như thế đó. Anh ta cũng nói rằng anh ta thấy rất là kỳ cục khi Cơ đốc giáo yêu cầu lứa tuổi thanh thiếu niên phải tránh quan hệ tình dục cho tới chừng nào họ kết hôn. Đức Chúa Trời yêu cầu ai đó phải thực hiện một việc như thế bằng cách nào? Mục sư Bob đáp rằng ông nhìn thấy đứa con gái của mình đang chơi đùa ở giữa đường Lake, ông sẽ không đứng lui lại rồi nói: “Phải, trẻ con là trẻ con. Nếu chúng muốn chơi đùa trên đường phố, tôi sẽ chẳng làm gì về việc ấy”. Loại cha mẹ nào sẽ làm như thế chứ? Không, ông sẽ gọi con gái mình: “Đừng chơi đùa trên đường phố nữa”. Nếu chúng than phiền, ông sẽ đến bồng lấy chúng rồi đưa ra khỏi con đường. Như thế là chẳng yêu thương sao? Chẳng tử tế sao? Mục sư Bob nói: “Nếu tôi yêu con gái tôi, tôi sẽ nói “không”!”
            Có khi bạn phải yêu thương người ta đủ để nói “không”!
            Đấy là những gì Đức Chúa Trời đang làm trong 10 Điều Răn. Ngài yêu thương chúng ta đủ để nói “không”[chớ]. Có thể chúng ta không hiểu được tình yêu ấy, có thể chúng ta không nhìn thấy như thế là đúng trong lúc bây giờ, có thể chúng ta nghĩ đường lối của chúng ta là hay hơn, nhưng Đức Chúa Trời là Đấng nhìn thấy mọi sự và nhìn biết cuộc sống được dự trù phải thể hiện ra sao, ban cho chúng ta 10 Điều Răn nầy như một cung cách sống phước hạnh cả bây giờ và cho đến đời đời.
            Có cách nhìn khác về sự việc nầy. Giả sử chúng ta đổi 10 Điều Răn thành các phước lành. Đại loại thì chúng sẽ giống như vầy:
Phước thay cho người nào đặt Đức Chúa Trời ở trên hết.
Phước thay cho người nào chẳng cần hình tượng.
Phước thay cho người nào chúc tụng danh Đức Chúa Trời.
Phước thay cho người nào xem trọng ngày của Đức Chúa Trời.
Phước thay cho người nào hiếu kính cha mẹ mình.
Phước thay cho người nào đánh giá cao sự sống.
Phước thay cho người nào giữ lời hẹn ước hôn nhân.
Phước thay cho người nào tôn trọng tài sản của người khác.
Phước thay cho người nào yêu mến lẽ thật.
Phước thay cho người nào học biết nghệ thuật của sự thỏa lòng.
            Người nào nói 10 Điều Răn là quá tiêu cực vậy? Chúng chẳng có tiêu cực gì đâu. Xây chúng lại thì bạn sẽ thấy 10 câu nói tích cực nhất về sự sống đã từng được viết ra.
            Có người gọi 10 Điều Răn là hẹp hòi. Hẹp hòi ư! Phải, theo một ý nghĩa chúng là hẹp hòi trong chỗ chúng quản trị đời đời những việc như giết người, tà dâm, thù hận, trộm cướp và nói dối. Nếu như thế là hẹp hòi, thế thì chúng ta cần mọi sự hẹp hòi mà chúng ta có thể tiếp thu được.
            10 Điều Răn có hẹp hòi không? Có, nhưng mỗi đường băng trên thế gian đều phải hẹp hòi như thế. Không một hành khách nào muốn viên phi công bỏ đường băng rồi đáp xuống trên một thửa ruộng. Bạn sẽ cảm nhận ra sao nếu viên phi công trưởng tuyên bố trên hệ thống liên lạc rằng ông ta chán hạ cánh trên phi cảng O’Hare, vì thế ông ta quyết định hạ cánh trên xa lộ Eisenhower? Hãy lắng nghe xem, khi bạn còn ở trên không trung, bạn cần có một viên phi công với tâm trí hẹp hòi. Bạn không cần gã có tính sáng tạo nào muốn hạ cánh trên xa lộ. Bạn cần một gã tâm trí hẹp hòi muốn hạ cánh trên đường băng cụ thể nhất. Nhàm chán ư? Có thể lắm, nhưng con đường hẹp kia thực sự là con đường rộng dẫn đến chỗ hạ cánh thật an toàn.
            10 Điều Răn dường như quá hẹp hòi cho bạn, nhưng chúng chỉ ra con đường dẫn tới một đời sống phước hạnh, tràn đầy. Có người nói: “Bạn làm việc gì đó sai, nhưng bạn không thể làm cho nó hoạt động được”. Đấy là lẽ thật quan trọng. 10 Điều Răn được ban ra bởi Đức Chúa Trời để tỏ ra cho chúng ta thấy “những gì đang hoạt động”.

II. Điều Răn Thứ Nhứt đòi hỏi gì nơi chúng ta?

            Với nền tảng đó, chúng ta chuyển sang xem xét Điều Răn Thứ Nhứt"Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác”. Hãy chú ý các Điều Răn bắt đầu với Đức Chúa Trời — chớ không phải với con người. Chúng ta khởi sự với hàng dọc — chớ không phải hàng ngang — vì cho tới chừng nào một người có mối quan hệ phải lẽ với Đức Chúa Trời, các mối quan hệ của người với người khác sẽ không đúng đắn. Ngay cả trình tự của Các Điều Răn dạy chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời phải ở hàng đầu.
            Chúng ta có thể tóm tắt sự dạy của 10 Điều Răn nầy bằng ba câu nói đơn giản:
1. Bạn phải có một Đức Chúa Trời.
2. Bạn phải có chỉ một Đức Chúa Trời mà thôi.
3. Đức Chúa Trời của bạn phải là Đức Chúa Trời của Kinh thánh.
            Đức Chúa Trời phải là trên hết. Đấy là chỗ mà 10 Điều Răn bắt đầu. Joy Davidman nói theo cách của ông như sau: “Bất cứ gì chúng ta ao ước, bất cứ gì chúng ta yêu thương, bất cứ gì chúng ta thấy xứng đáng để chịu khổ cho, sẽ là trái của Biển Chết trong miệng của chúng ta trừ phi chúng ta nhớ rằng Đức Chúa Trời phải ở trên hết”.
            Nhưng câu nầy có ý nói gì theo một ý nghĩa thực tế? Điều gì được đòi hỏi nơi chúng ta?

A. Lòng trung thành

            Người kia mua bức tượng Đấng Christ tại một phiên đấu giá rồi đem đặt tượng ấy vào phòng khách. Qua ngày sau, vợ ông quyết định bức tượng thuộc về căn phòng khác. Khi đứa con gái 5 tuổi của họ nhìn thấy mẹ nó di dời bức tượng đi, nó thốt lên: “Mẹ định đặt Đức Chúa Trời ở đâu vậy?”
            Câu hỏi thật là hay. Mẹ định đặt Đức Chúa Trời ở đâu? Đấy là những gì Điều Răn Thứ Nhứt đang yêu cầu bạn: “Ngươi đặt Đức Chúa Trời ở chỗ nào? Liệu Ngài có chỗ ưu tiên một trong đời sống của ngươi chăng? Hay ngươi sẽ đặt Ngài ở một chỗ nào đó mà Ngài sẽ không gây ra rắc rối chăng?”
            Đức Chúa Trời phải là trên hết! Đấy là sứ điệp rung lên từ Núi Sinai. Ngài không đứng ở vị thế hạng nhì. Ngài không ưng chịu vị thế đó. Ngài phải là trên hết trong đời sống của bạn. Và điều đó đòi hỏi lòng trung thành đối với Ngài.
            Trong một quyển sách của ông, Chuck Colson thuật lại khi ông giảng dạy cho một nhóm người theo Ấn độ giáo ở Ấn độ. Khi ông chia sẻ bằng chứng của ông về Đức Chúa Jêsus Christ, ông thấy họ rất chăm chú nghe. Họ mĩm cười, gật đầu, rồi đồng ý với mọi sự ông nói. Sau đó, ông trao đổi với người chủ nhà về thái độ đáng nhận của khán thính giả có đối với Tin Lành Cơ đốc. Họ giải thích: “Ồ không, ông không hiểu đấy thôi. Đối với người theo Ấn giáo, Chúa Jêsus chỉ là một trong nhiều vị thần linh. Đối với họ, “chấp nhận” Đấng Christ theo kiểu của họ giống như họ chấp nhận các thần khác trong danh sách các thần của họ. Chúa Jêsus là một trong các thần đối với người theo Ấn độ giáo”.
            Mấy ngày sau, Chuck Colson giảng cho khán thính giả khác theo Ấn giáo và có một trải nghiệm tương tự. Nhưng lần nầy, một học giả Ấn giáo bước lên phía trước rồi nói: “Tôi tin chính xác mọi điều ông tin”. Chuck quyết định thử ông ta: “Tôi không nghĩ ông thực sự tin những gì tôi tin. Khi tôi nói Đức Chúa Jêsus Christ là Con của Đức Chúa Trời, tôi có ý nói rằng Đức Chúa Trời đã đến trong xác thịt con người. Không những Ngài là một giữa vòng nhiều người hay thậm chí là người tốt nhứt trong nhiều người, mà Ngài còn là Đức Chúa Trời chơn thật duy nhứt, là Đấng đã hiện ra trên đất trong xác thịt loài người. Ông phải đưa ra lòng trung thành tối thượng và hoàn toàn đối với Đức Chúa Jêsus Christ nầy, là Đấng đã đến từ trời — cho Ngài và không cho một ai khác”. Người theo Ấn giáo kia suy nghĩ trong một phút rồi nói: “Ông nói đúng. Tôi không tin những gì ông tin. Giờ đây, tôi phải về nhà rồi suy nghĩ về mọi điều mà ông đã nói”.
            Đấy là vấn đề, có phải không? Đức Chúa Jêsus Christ phải có vị trí trên hết trong đời sống của bạn. Ngài sẽ không chia sẻ sự vinh hiển của Ngài với bất kỳ ai hay bất cứ sự vật gì khác. Ngài phải là trên hết — chớ không chỉ là trên hết giữa vòng nhiều người hay người tốt nhứt so với phần còn lại — mà Ngài phải là ưu việt trong muôn vật.

B. Thành thực

            Điều Răn Thứ Nhứt kêu gọi chúng ta phải thành thực về lòng trung thành tối hậu của chúng ta. Đây là phần thử nghiệm rất đơn sơ. Hãy dành 5 phút tuần nầy để ở riêng trong nơi yên tĩnh rồi trả lời mấy câu hỏi nầy: Ai hay cái gì là thần của tôi? Tôi dâng đời sống tôi cho cái gì đây? Tôi đặt lòng trung thành trọn vẹn của tôi ở đâu đây? Những diều nào trong cuộc sống là quan trọng đối với tôi?
            Nếu chúng ta thành thực, một số người trong chúng ta sẽ không thấy xử lý dễ dàng với những câu hỏi nầy, vì chúng thăm dò ở một cấp độ sâu sắc và khó khăn. Bạn nói: “Đức Chúa Jêsus Christ là Đức Chúa Trời của tôi”. Có thực như thế không? Có phải Ngài có lòng trung thành trọn vẹn của bạn không? Trong khi xưng nhận mình thờ lạy Đức Chúa Jêsus Christ, có phải bạn hiện đang ở trong sự thờ phượng một loạt các thần linh khác không?
— Công ăn việc làm của bạn sẽ là thần của bạn.
— Sự nghiệp của bạn có thể là thần của bạn.
— Học vấn của bạn có thể là thần của bạn.
— Khuynh hướng xã hội của bạn có thể là thần của bạn.
— Gia đình của bạn — phải, ngay cả con cái của bạn — có thể là thần của bạn.
            Hãy suy nghĩ về cách bạn xài tiền, cách bạn sử dụng thì giờ nhàn rỗi, những việc bạn mơ ước tới khi cuộc sống trở nên trì trệ.
            Đâu là một vị thần? Đó là thứ cung ứng nguồn ý nghĩa và hạnh phúc tối hậu trong cuộc sống. Thật là dễ dàng mong muốn được nâng cao lên tới thể trạng như thần linh … ngay cả bằng hạng người tôn giáo đi nhà thờ mỗi Chúa nhật!
            Ai nấy đều có một vị thần! Ngay cả người theo thuyết vô thần đã lập một vì “thần” từ niềm tin không có thần linh gì hết nữa là. Ai nấy đều nhìn về một người hay một vật nào đó để tìm kiếm ý nghĩa và hạnh phúc và sự đầy dẫy trong cuộc sống. Điều Răn Thứ Nhứt là cách nói của Đức Chúa Trời: “Phải biết chắc người nhìn xem Ta trước hết. Hãy trao cho Ta chỗ trên hết trong đời sống của ngươi”.

C. Ăn năn

            Ăn năn! Ăn năn phải làm gì với Điều Răn Thứ Nhứt? Mọi sự!
"Không có thần nào khác”
"Không có thay thế nào hết”
"Không có mô phỏng nào cả”
"Không im lặng”
            Không im lặng! Phải, điều răn nầy đòi hỏi không những lòng trung thành bề trong, mà còn đòi hỏi lòng trung thành ở bề ngoài nữa. Không nhuộm màu, không che giấu lai lịch của chúng ta. Chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời, Ngài phải là trên hết, và chúng ta phải khiến cho thế gian nhìn biết.
            Sao phải ăn năn chứ?
— Thái độ hèn nhát về đạo đức của chúng ta
— Đồng lõa với điều ác
— Khuynh hướng của chúng ta muốn thay thế Đức Chúa Trời bằng các thần tượng con người.
— Thất bại của chúng ta không nói ra khi danh của Đức Chúa Trời bị xúc phạm.
— Thái độ im lặng của chúng ta trong lúc khủng hoảng.
            Họ giết trẻ sơ sinh tại nước Mỹ. Hội thánh của Đức Chúa Jêsus Christ ở đâu chứ? Nếu Ngài có mặt ở đây, sao Ngài phải lặng im chứ? Lẽ nào Ngài lại xây mặt đi? Làm sao dân sự của Ngài cứ giữ im lặng đang khi trẻ sơ sinh bị giết chết như thế chứ?
            Đức Giêhôva phán: “hãy ăn năn”. “Hãy thay đổi lối ác của ngươi đi. Ngươi là dân sự ta, tuy nhiên ngươi đã xây khỏi Ta. Ta phải có chỗ trên hết trong đời sống của ngươi”.
D. Can đảm
            Thật là không dễ cho Môise khi đem lời lẽ nầy đến với dân Israel. Dân sự đã sống trong một thế giới đầy dẫy với các tà thần:
— Thần Isis
— Thần Moloch
— Thần Baal
— Thần Astarte
— Thần Ashtoroth
            Những danh xưng xưa cũ đối với chúng ta; nhưng là thực tại hàng ngày đối với dân Israel. Họ đã sống trong một thế giới hiến cho họ một vị thần phì nhiêu, một vị thần mùa màng, một vị thần mặt trời và một vị thần mặt trăng. Đối với họ, lời kêu gọi nầy đến với chủ nghĩa độc thần là lời kêu gọi chối bỏ thế giới mà họ đã nhìn thấy ở chung quanh họ từng ngày một.
            Can đảm! Đấy là cứ nói “không” với các tà thần.
            Chúng ta cũng xem nhẹ mấy lời nầy. Nhưng Đức Chúa Trời rất long trọng khi Ngài phán: “Chớ có thần nào khác”. Ngài muốn nói như thế!
            Độc quyền? Phải!
            Không khoan nhượng? Phải!
            Không đa nguyên? Phải!
            Tôn giáo theo Kinh thánh là toàn bộ mọi sự ấy. Tôn giáo thật luôn luôn đi ngược lại với tinh thần của thời đại.
            Ở đây, tại Oak Park chúng ta đã lập ra ba vị thần giả dối:
            Đa dạng
            Khoan nhượng
            Đa nguyên
            Nhưng đây là các tà thần! Và chúng ta đã quì gối xuống trước mặt chúng!
            Và về hậu quả của Đệ II Thế Chiến, Elton Trueblood đã nhìn lại những Cơ đốc nhân Đức dũng cảm nào có lòng dạn dĩ chống lại Adolph Hitler. Khi nhiều người khác bám theo hoặc giữ im lặng, một ít người, một số người có lòng can đảm, sẽ không bám theo đa số. Trueblood đưa ra câu hỏi: “Hạng người nầy đã tạo ra sự khác biệt gì? Tại sao họ nói “không” khi ai nấy đều nói “vâng”?” Câu trả lời của ông rất đơn giản: “Họ có Điều Răn Thứ Nhứt”. Bất nhiêu đủ để tạo ra sự khác biệt rồi. Khi bạn có Điều Răn Thứ Nhứt, khi bạn xem đấy là trọng giống như một con đường sống, bạn tìm gặp sự dạn dĩ để đứng chống lại đám đông.
            Chúng ta hãy gói ghém sứ điệp đầu tiên nầy với bốn điểm ứng dụng đơn sơ.
Những bước đầu tiên đến với đời mới
1. Chúng ta cần 10 Điều Răn vì chúng ta đã trôi dạt xa khỏi bản thiết kế của Đức Chúa Trời cho cuộc sống.
2. Vì sự trôi dạt là cá nhân, sự trở lại cũng phải cá nhân.
3. Sự trở lại bắt đầu với sự cam kết cá nhân đặt Đức Chúa Trời lên trên hết mọi sự.
4. Khi chúng ta chiêm ngắm đời sống của chúng ta theo ánh sáng của Điều Răn Thứ Nhứt, chúng ta hướng tới thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ.
            Rôma 10:4 chép rằng: vì Đấng Christ là sự cuối cùng của luật pháp, đặng xưng mọi kẻ tin là công bình. Có nhiều cách để hiểu rõ câu nói ấy, nhưng ít nhất câu ấy nói nhiều tới việc nầy: Khi chúng ta đọc 10 Điều Răn và khi chúng ta bắt đầu xem xét đời sống của mình theo ánh sáng những đòi hỏi cao độ của Đức Chúa Trời, chúng ta bị hướng tới thập tự giá của Đấng Christ.
            Sự sống bắt đầu khi bạn đến với Đức Chúa Jêsus Christ. Cho tới khi ấy, bạn mới thực sự sống. Điều Răn Thứ Nhứt nói: “Hãy đặt Đức Chúa Trời lên trên hết thì bạn sẽ tìm gặp sự sống”.
            Thánh Augustine nói như sau: “Lạy Chúa, tấm lòng của chúng con được lập ra vì Ngài, và chúng con sẽ không tìm được sự yên nghỉ, cho tới chừng nào chúng con yên nghỉ ở trong Ngài”. Điều Răn Thứ Nhứt nói: “Hãy đặt Đức Chúa Trời lên trên hết thì ngươi sẽ được yên nghỉ”.
            Bước thứ nhứt đến với sự sống là phải xem trọng Điều Răn Thứ Nhứt. Và bước thứ nhứt trong Điều Răn Thứ Nhứt là phải xem xét đời sống của bạn theo ánh sáng thập tự giá của Đấng Christ. Hãy vòng tay ôm lấy thập tự giá. Hãy đặt Đấng Christ ngay trung tâm đời sống của bạn. Hãy xưng Ngài là Chúa và Cứu Chúa. Có chín điều răn khác nữa, nhưng chúng sẽ chẳng có ích chi cho bạn trừ phi bạn nhớ rằng Đức Chúa Jêsus Christ phải đến trước hết.

Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

Giăng 13:6-13: "Hai Bàn Chân Bẩn Thỉu"



Hai Bàn Chân Bẩn Thỉu

– Giăng 13:6-10

            Trên Phòng Cao Tại Thành Jerusalem.
            Các môn đồ nhóm lại với Chúa Jêsus để dự bữa ăn sau cùng của họ. Hết thảy họ đều có mặt ở đó – Giacơ và Giăng, Giuđa, Phierơ, Philíp, Bathêlêmy, Mathiơ, Simôn người Xêlốt, và mọi người khác nữa. Nghiêng người quanh cái bàn thấp, họ trao đổi với nhau bằng giọng điệu lo âu. Họ nhìn biết sắp sửa có chuyện xảy ra. Chúa Jêsus có vẻ trầm mặc hẳn đi. Ngài nói, song dường như có điều chi đó trong tâm trí Ngài, và quả thật Ngài đang có việc gì đó trong trí. Chúa Jêsus, khi Ngài dự bữa ăn đó, Ngài biết rõ trước khi Giuđa sẽ đến với một nụ hôn, binh lính Lamã sẽ đến để bắt lấy Ngài, và không bao lâu nữa Ngài sẽ đứng trước mặt Caiphe, Hêrốt và Philát. Không đầy 12 tiếng đồng hồ nữa, Ngài sẽ bị treo trên một cây thập tự. Cuộc trao đổi cứ tới lui mãi và Chúa Jêsus đang lắng nghe.
            Thình lình Ngài đứng dậy, cởi áo mình ra, rồi quấn cái khăn quanh hông Ngài. Lấy một cái chậu nước, Ngài đi đến cuối bàn rồi quì gối xuống. Không nói một lời, Ngài nắm lấy chơn của từng môn đồ, rửa sạch bụi bẩn đi, và dùng nước rửa chơn cho họ, từng lúc từng bàn chơn một. Khi Ngài rửa xong, Ngài lấy cái khăn rồi lau cho khô các bàn chơn. Ngài đến với từng người một và làm y một công việc đó. Trong căn phòng, có sự im lặng phăng phắc. Chẳng có người nào dám lên tiếng. Họ không thể tin vào những việc Chúa Jêsus đang làm.

I. Rửa chơn là một dấu hiệu lịch sự thông thường.

            Những gì có vẻ kỳ lạ đối với chúng ta dường như chẳng có gì kỳ lạ trong thế kỷ thứ nhứt. Bởi vì hầu hết mọi người đều mang dép và đường xá thì bụi bặm lắm, ngay cả một chuyến đi ngắn cũng khiến cho hai bàn chân của bạn cũng bị dơ đi. Người Lamã đã xây dựng một hệ thống đường xá thật là tốt ("mọi con đường đến dẫn tới Lamã” còn hơn là một khẩu hiệu nữa) một số đường xá ấy vẫn còn đang sử dụng ngày nay. Sau khi kiến thiết con đường dẫn từ thành phố nầy sang thành phố khác, họ đặt một loại đất trên con đường cung ứng một mặt phẳng thật trơn tru. Nhưng thứ đất ấy để lại những dấu không thể xóa nhòa trên những ai đi trên con đường đó. Trong thế giới cổ, cung ứng một chậu nước cho quí khách để rửa chơn cũng là điều rất thông thường. Phong tục diễn tiến sâu xa đến nỗi bốn lần nhắc nhở đầu tiên về từ ngữ “chơn” trong Kinh thánh bao gồm cả việc rửa hai bàn chơn bẩn thỉu (Sáng thế ký 18:4; 19:2; 24:32; 43:24). Trong mỗi trường hợp, nước được cung ứng để quí khách có thể rửa chơn của chính họ. Đây là phép lịch sự phổ thông trong thời ấy. Và thực vậy, không cung ứng nước cho khách rửa chơn sẽ là hành vi vi phạm phép xã giao và là một hành động bất lịch sự đối với một vị khách.

Bởi vì hầu hết mọi người đều mang dép và đường xá thì bụi bặm lắm, ngay cả một chuyến đi ngắn cũng khiến cho hai bàn chân của bạn cũng bị dơ đi.

            Chúng ta nhìn thấy điều nầy rất rõ ràng ở Luca 7:36-50, khi Chúa Jêsus đến viếng nhà của Simôn người Pharisi. Một bữa ăn thịnh soạn bị ngắt quãng khi có một người nữ từng là kỵ nữ xuất hiện và quì xuống nơi chơn của Chúa Jêsus, khóc lóc vì cớ tình cảm nàng dành cho Ngài, và rồi lấy mái tóc dài của mình mà lau khô chơn cho Ngài. Simôn bị xúc phạm bởi cách xử sự gây sốc thái quá nầy. Nhưng nhìn biết ông đang suy nghĩ, Chúa Jêsus quở trách Simôn với lời lẽ châm chích nầy:
            “Ngươi thấy đàn bà nầy không? Ta vào nhà ngươi, ngươi không cho nước rửa chân; nhưng người đã lấy nước mắt thấm ướt chân ta, rồi lấy tóc mình mà chùi. Ngươi không hôn ta; nhưng người từ khi vào nhà ngươi, thì hôn chân ta hoài. Ngươi không xức dầu đầu ta; nhưng người lấy dầu thơm xức chân ta (các câu 44-46).
            Người đàn bà đã yêu thương nhiều vì nàng đã được tha thứ nhiều. Simôn không nhìn thấy mình là một tội nhân trầm trọng, vì thế ông ta chẳng màng đến việc cung ứng cho Chúa Jêsus các dấu hiệu nói tới phép xã giao thông thường:
            Nước để rửa chơn Ngài,
            Một nụ hôn tiếp đón Ngài,
            Dầu xức đầu Ngài.

II. Rửa chơn là công việc của hàng nô lệ.

            Trong thời buổi ấy, theo thông lệ thì bạn rửa chơn của mình sau khi chủ nhà cung ứng cho bạn một chậu nước. Bạn cúi xuống, cởi dép ra, rửa chơn mình, rồi lau khô nó bằng một cái khăn. Nếu một người có tôi tớ, họ sẽ được ủy thác làm công việc ấy thay cho bạn. Đấy là dấu hiệu của sự thành đạt cao trong xã hội – các tôi tớ rửa chơn cho khách mời của bạn. Nhưng trong mọi trường hợp, người chủ nhà phải rửa chơn cho khách mời của mình. Người bậc cao sẽ không hề hạ thấp mình để rửa chơn cho những ai thuộc bậc thấp hơn mình.

Nhưng trong mọi trường hợp, người chủ nhà phải rửa chơn cho khách mời của mình.

            Hạng nô lệ phải lo rửa chơn.
            Hạng chủ nhân không bao giờ làm việc ấy.

III. Rửa chơn theo định nghĩa là một việc làm bẩn thỉu, hôi hám, và nhục nhã.

            Hai bàn chơn bốc mùi khi chúng dơ bẩn.
            Đấy là một thực tế rất người, chớ không phải một vấn đề thuộc văn hóa. Sau một ngày dài, nhọc nhằn, hai bàn chơn bạn đã có một lượng tiếp xúc thật nhiều. Nếu bạn mang dép, chúng tiếp xúc với bụi đất ở khắp mọi nơi. Nếu hai bàn chơn của bạn mang vớ, chúng có thể đổ mồ hôi rất nhiều. Và khi ấy bạn có đủ thứ nan đề nơi bàn chơn – mấy móng chân cúp vào trong, chai sần, gót chân nứt nẻ, và đối với một số người, có nấm đủ loại hết.
            Nói hầu hết mọi người đều không chú ý nhiều tới hai bàn chơn của họ là chẳng có gì quá đáng.  Và nam giới thì ít chú ý hơn là nữ giới. Đối với nam giới bàn chơn là những phần tận cùng của hai chơn chúng ta. Chúng ta nghĩ về chúng khi chúng ta mua giày, và chúng ta nghĩ về chúng khi chúng ta bị thương, nhưng đấy là việc về bàn chơn. Rất nhiều người đi suốt cả đời mà không có một móng chơn. Đối với nữ giới thì đây là một vấn đề rất khác biệt. Thế nhưng, hầu hết chúng ta vẫn không nghĩ đến nhiều về hai bàn chơn trừ phi chúng làm cho chúng ta phải bối rối.
Hai bàn chơn bốc mùi khi chúng bị bẩn.

            Bạn có bao giờ thử rửa chơn cho ai đó vào cuối một ngày dài nóng bức chưa? Bạn có bao giờ tìm cách rửa chơn cho ai đó khi họ đẫm mồ hôi và mình đầy bụi bặm chưa? Bạn có bao giờ cúi mặt nhìn xuống cái móng chơn đã quặp vào phía trong chưa? Đây chẳng phải là một việc dễ làm đâu. Một số nhóm xem việc rửa chơn giống như một mạng lịnh của nhà thờ. Tôi chẳng phản đối gì về việc thực hành sự việc ấy và thực vậy, tôi nghĩ đấy sẽ là một ký ức đáng nhớ về đêm hôm ấy trên chiếc Phòng Cao. Nhưng nếu bạn biết bạn sẽ bước vào một dịch vụ rửa chơn, đầu tiên bạn sẽ làm gì chứ? Bạn rửa chơn của mình! Đấy là điều mà tôi sẽ làm. Chúng ta tự nhiên làm như thế vì chúng ta không muốn ai đó đến rửa hai bàn chơn bẩn thỉu bốc mùi của tôi.
            Nhưng đấy là toàn bộ mục đích, có phải không?
            Nếu hai bàn chơn của bạn không dơ bẩn, chúng không cần rửa đâu. Nếu chúng cần rửa, thì ai đó phải cúi xuống, đến gần và tiếp cận riêng với hai bàn chơn bẩn thỉu của bạn. Đối với hầu hết chúng ta, điều nầy rất xấu hổ và nhục nhã. Cách đây mấy năm, khi con trai cả của tôi là Josh qua năm đầu tiên của nó ở Trung Hoa trong vai trò một giáo viên dạy Anh ngữ, phần còn lại trong gia đình thực hiện một chuyến hành trình đến thăm viếng nó ở Bắc kinh. Chúng tôi đã có một thời điểm thật tuyệt vời và yêu mến xứ sở ấy cùng con người. Chúng tôi đến viếng Cấm Thành, Quãng Trường Thiên An Môn, Hạ Cung, và Vạn Lý Trường Thành của Trung Hoa. Tất cả rất hấp dẫn và tuyệt vời. Một ngày kia, Josh tuyên bố rằng hết thảy chúng tôi sẽ đi mát-xa chơn theo cách của người Trung hoa. Tôi đã hơi nghi nhưng rồi cũng tham gia. Thế là chúng tôi ngồi taxi xuống khu mua sắm chính ở Bắc Kinh, ở đó chúng tôi tìm gặp chỗ làm mát-xa chơn trên tầng hai của một toà nhà cao tầng. Thì ra đây là chỗ rất đẹp. Họ để cho chúng tôi mỗi người ngồi trên một chiếc ghế cao (giống như cái ghế ở tiệm hớt tóc vậy), chúng tôi có thể xem TV hay đọc các tạp chí ở đó. Họ dọn trà và bánh sandwiches cho chúng tôi. Chắc chắn là các nhân viên chuyên mát-xa cũng có mặt ở đó. Bốn người nữ và một người nam. Có một thiếu nữ trẻ có tầm cỡ bằng phân nửa tầm cỡ của tôi đến làm mát-xa cho tôi. Cô ta nhìn thẳng vào tôi, mĩm cười, rồi đưa bàn chơn tôi vào một chão trà nóng, rửa sạch chúng và cũng cất bỏ hết mọi cảm giác. Mấy phút sau, cô ta trở lại rồi làm công tác mát-xa, chà xát, kéo dãn, và làm đủ mọi cách thức cho hai bàn chơn của tôi, kể cả việc kéo căng mấy ngón chơn của tôi.  Ở một điểm, cô ấy nhìn qua một bên rồi thực hiện một số trò đùa theo người Trung hoa. Bạn sẽ làm gì khi có ai đó cù vào chơn bạn theo một ngôn ngữ mà bạn không thể hiểu được chứ? Cô ta cù nơi hai bàn chơn của tôi trong một lúc, rồi vòng ra phía sau tôi và mát-xa cổ, vai và phần trên cánh tay của tôi. Marlene, Josh, Mark và Nick cũng nhận lấy cách mát-xa y như thế.

Nếu hai bàn chơn của bạn không dơ bẩn, chúng không cần rửa đâu.

            Toàn bộ trải nghiệm nầy kéo dài khoảng một giờ đồng hồ và mỗi người phải trả $12US. Mặc dù cách mát-xa như thế nầy chẳng làm tôi đau, cuối cùng tôi cảm thấy chúng khá hơn trong nhiều tháng trời. Khi nhìn lại kinh nghiệm đó, cái điều tôi nhớ, ấy là cảm giác rất tổn thương khi có ai đó làm mát-xa cho chơn của tôi.  Có ai đó làm sạch cho chơn của bạn mặc dù bạn trả tiền cho việc ấy thì quả là thấp hèn làm sao ấy.

IV. Bàn chơn tiêu biểu cho toàn thân.

            Điều nầy lúc đầu thì chẳng rõ nét lắm, song hãy suy nghĩ về việc ấy xem. Hai bàn chơn của bạn mang một tải trọng rất lớn. Có phải bạn biết một người trung bình đi ba vòng trái đất trong cả cuộc đời họ không? Và chính bàn chơn là một cơ chế phức tạp được dựng nên từ 23 cái xương, 33 khớp nối, và hơn 100 bắp thịt và dây chằng. Dù bạn có biết như thế hay không, bàn chơn của bạn tiêu biểu mọi sự thuộc về bạn. Rốt lại, bất cứ đâu hai bàn chơn của bạn đi tới, phần còn lại của bạn phải đi theo.
            Nếu bàn chơn bạn bị thương, cả thân thể bạn bị thương.
            Nếu bàn chơn của bạn bị lạnh, hết thảy thân thể bạn cũng bị lạnh nữa.
            Nếu bàn chơn của bạn dơ bẩn, bạn không thể cảm thấy sạch sẽ cho tới chừng bạn rửa chơn xong.

            Nếu bàn chơn của bạn bị lạnh, hết thảy thân thể bạn cũng bị lạnh nữa.

            Hai bàn chơn của bạn đưa bạn tới bất cứ đâu bạn muốn đi tới. Đấy là lý do tại sao Kinh thánh chép: Những bàn chân kẻ rao truyền tin lành là tốt đẹp biết bao! (Rôma 10:15). Trong phòng ngủ, chúng tôi có tấm hình chụp về hai cặp bàn chơn. Một là của nam giới và trông hơi thô kệch. Còn bàn chơn kia thì nhỏ và trông xinh xắn hơn. Cặp bàn chơn thứ nhứt thuộc về Josh, cặp thứ hai thuộc về Leah. Josh lấy tấm hình hai bàn chơn của chúng đang đứng cạnh nhau. Tấm hình được khắc với hàng chữ: “Những bàn chân kẻ rao truyền tin lành là tốt đẹp biết bao!” Và thực vậy, mấy bàn chơn đó rất xinh đẹp đối với chúng tôi.

V. Rửa chơn bày tỏ tấm lòng cho mọi người xem thấy.

            Vì bàn chơn là phần thấp kém của thân thể, việc rửa chúng chạm đến chúng ta thật sâu sắc và tỏ ra mọi cảm xúc chân thật nhất của chúng ta. Đấy là lý do tại sao Phierơ đã phản ứng thật mạnh mẽ khi Chúa Jêsus đến gần ông với cái khăn và chậu nước (Giăng 13:6).  Trong tiếng Hylạp, từ ngữ thậm chí còn mạnh mẽ hơn cả Anh ngữ. Những chữ “Thầy”“của tôi” được đặt ở một chỗ phải nhấn mạnh, giống như thể Phierơ đang nói: “Thầy ôi, rửa chơn [của] tôi sao?” Song ngay cả như thế cũng chưa tỏ ra hết cú sốc mà Phierơ đã cảm nhận. “Làm sao mà Ngài là Chúa của tôi lại rửa chơn của một kẻ giống như tôi?"  Phierơ cảm thấy rằng việc nầy là không đúng, không cứ cách nào đó mọi vai trò đã bị đảo lộn. Để cho Chúa Jêsus chạm đến hai bàn chơn bẩn thỉu của ông, sự việc nầy xúc phạm mọi sự mà ông đã được truyền dạy. Điều nầy không nên xảy ra.
            Đồng thời, đây là một trong những cuộc trao đổi dài nhất giữa Phierơ và Chúa Jêsus. Và mọi sự Phierơ đang nói là sai hết. Há bạn chẳng yêu mến Phierơ sao? Ông nhảy từ thái cực nầy sang thái cực kia. Phierơ càng nói, ông càng sa vào chỗ lầm lẫn. Trước tiên, ông bị sốc (câu 6), rồi ông từ chối thẳng thừng không cho Chúa Jêsus rửa chơn của ông (câu 8), rồi ông yêu cầu Chúa Jêsus cũng nên rửa hai bàn tay và đầu của ông nữa (câu 9). Ông thốt ra sự nhầm lẫn phát sinh từ thất bại và hoàn toàn hiểu sai trái. Chúa Jêsus chẳng nói năng hay phản ứng gì đối với ông. 

Há bạn chẳng yêu mến Phierơ sao? Ông nhảy từ thái cực nầy sang thái cực kia

            Ở câu 8, ông từ chối Chúa Jêsus bằng thứ ngôn ngữ mạnh mẽ nhất khả thi. Ông sử dụng nhiều từ tiêu cực đến nỗi chúng ta không thể phiên dịch nó rõ ràng theo Anh ngữ. Đại loại là: “Ngài sẽ không bao giờ rửa chơn của tôi, bây giờ hay về sau, tuyệt đối là không”. Chúa Jêsus bình tỉnh đáp lại: Nếu ta không rửa cho ngươi, ngươi chẳng có phần chi với ta hết. Và khi ấy, Phierơ nói: “Vậy thì xin cho tôi được tắm đi. Hãy rửa tôi mọi thứ đi”.
            Nguyện Đức Chúa Trời chúc phước cho Phierơ. Ông không hiểu, nhưng ông muốn Chúa Jêsus phải biết rằng ông yêu mến Ngài, ông muốn trở thành môn đồ của Ngài thật trọn vẹn.
            Đấy là điều tôi muốn nói khi tôi nói rằng rửa chơn bày tỏ ra tấm lòng. Thiếu nước cho việc rửa chơn chứng tỏ thái độ dửng dưng của Simôn người Pharisi. Sự nhầm lẫn của Phierơ tỏ ra chiều sâu sự kỉnh kiền của ông.  Ông muốn đi theo Chúa Jêsus với hai bàn chơn sạch sẽ, một tấm lòng thanh sạch, và với từng phần khác của thân thể.
            Đừng bỏ qua sự kiện theo Giăng 13:4 bữa ăn đã được dọn rồi khi Chúa Jêsus khởi sự rửa chơn cho các môn đồ. Nhưng thời điểm cho việc rửa chơn bình thường thì phải đến trước bữa ăn. Tại sao họ không rửa chơn cho nhau? Tại sao chẳng có ai rửa chơn cho Chúa Jêsus? Tại sao họ khởi sự bữa ăn với hai bàn chơn bẩn thỉu của họ chứ? Chắc chắn các biến cố của một vài ngày sau cùng đã làm cho họ phải phân tâm. Nhưng chúng ta có được manh mối quan trọng hơn từ Luca 22:24, ở đây dạy cho chúng ta biết rằng trên Phòng Cao kia sau khi Chúa Jêsus ban Tiệc Thánh: Môn đồ lại cãi lẫy nhau, cho biết ai sẽ được tôn là lớn hơn hết trong đám mình. Bạn có thể hình dung được như thế chưa? Chúa Jêsus vừa tỏ ra rằng Ngài sẽ dâng thân thể và huyết của Ngài cho họ, và giờ đây tất cả họ đang tìm kiếm xem ai là nhân vật số 1.  Không có gì là lạ khi họ không rửa chơn cho nhau. Không có gì là lạ, việc ấy bị bỏ lại cho Chúa Jêsus. Thầy phải trở thành tôi tớ của mọi người hầu cho ai nấy sẽ hiểu Ngài thực sự là ai và lý do tại sao Ngài đã đến với trần gian.
 
Thầy phải trở thành tôi tớ của mọi người hầu cho ai nấy sẽ hiểu Ngài thực sự là ai và lý do tại sao Ngài đã đến với trần gian.

VI. Rửa chơn phác họa sự chết của Đấng Christ trên thập tự giá.

            Đấy là điều Chúa Jêsus muốn nói khi Ngài phán cùng Phierơ:Hiện nay ngươi chẳng biết sự ta làm; nhưng về sau sẽ biết (câu 7). Bụi đất bám nơi chơn của bạn tiêu biểu cho bụi đất mà hết thảy chúng đang cưu mang ở bên trong. Vết uế bên ngoài từ những con đường bẩn thỉu phản chiếu vết uế tội lỗi bên trong mà rửa với nước sẽ chẳng bao giờ loại bỏ đi được. Chúa Jêsus đang quấn lấy cái khăn của người tôi tớ phác hoạ thái độ bằng lòng của Ngài chết cái chết của một tội phạm. Và nước đứng thay cho huyết của Ngài thanh tẩy tội lỗi. Bản thân việc rửa đứng thay cho “sự rửa về sự lai sanh” (xem Tít 3:5) nhờ đó tội lỗi của chúng ta bị trừ đi. Đấy là lý do tại sao Chúa Jêsus bảo Phierơ rằng hai bàn chơn của ông phải được rửa hay ông sẽ chẳng có phần gì ở trong Ngài (câu 8). Bao lâu Đấng Christ còn đứng ngoài chúng ta, mọi sự mà Ngài đã làm cho thế gian chẳng có giá trị gì đối với chúng ta. Nói như thế nầy là chưa đủ: “Tôi nhóm lại ở Hội thánh Trưởng Lão Wesley” hay “Tôi thích hát những bài thánh ca” hoặc thậm chí “Mục sư Brian đã làm phép báptêm cho tôi”. Nói như thế nầy là chưa đủ: “Tôi tin rằng có một người tên là Jêsus đã sống và đã chết cách đây 2000 năm”. Vào đêm đó trên Phòng Cao, nói như thế nầy là chưa đủ: “Tôi thích quan điểm Chúa Jêsus rửa chơn; tôi chỉ không muốn Ngài rửa chơn [của] tôi”. Bao lâu bạn còn đứng tẻ tách ra khỏi Đấng Christ, mọi tri thức và kinh nghiệm tôn giáo trong thế gian chẳng tạo ra một sự khác biệt nào hết.

Bao lâu Đấng Christ còn đứng ngoài chúng ta, mọi sự mà Ngài đã làm cho thế gian chẳng có giá trị gì đối với chúng ta.

            Mục sư Charles Spurgeon chỉ ra rằng nhiều lợi thế thuộc linh của Phierơ chẳng tạo ra một sự khác biệt nào hết:
            Ông biết hạ mình, tuy nhiên hạ mình là chưa đủ.
            Ông kinh nghiệm nhiều phép lạ, song phép lạ cũng chưa đủ.
            Ông đã nghe Đấng Christ dạy dỗ, song tri thức cũng chưa phải là đủ.
            Ông bước đi với Đấng Christ, song chỉ gần gũi với Ngài thì cũng chưa phải là đủ.
            Ông thể hiện nhiều hành động phục vụ, song làm lành vẫn chưa phải là đủ đâu.
            Ông đã nhìn thấy Đấng Christ trên Núi Hóa Hình, nhưng nhiều kinh nghiệm thuộc linh chưa phải là đủ.
            Ông rất sốt sắng đối với Chúa Jêsus, nhưng thế vẫn chưa phải là đủ.
            Phierơ phải đầu phục với sự hạ mình để cho Con Đức Chúa Trời rửa chơn cho ông, và ông phải làm công việc ấy mặc dù ông chưa hiểu hết được công việc đó. Cũng một thể ấy, đến với Đấng Christ giống như chơn mình đã được rửa rồi vậy. Chúng ta phải đến với Ngài, bẩn thỉu và lem luốt, xấu hổ bởi vết nhơ của tội lỗi mà chúng ta không thể loại bỏ được, và chúng ta chẳng làm việc gì cả đang khi Đấng Christ làm công việc thay cho chúng ta.

Cũng một thể ấy, đến với Đấng Christ giống như chơn mình đã được rửa rồi vậy.

            Chúng ta không thể dời đi chính tội lỗi của chúng ta. Đấng Christ phải làm điều đó cho chúng ta. Nhiều bài thánh ca nói tới lẽ thật nầy:
            “Lòng tội nầy sao cho trắng băng?
            Còn gì ngoài ra huyết Chúa Jêsus”
            “Kìa, trông suối thiêng huyết báu tuôn đầy, Từ hông Jêsus phát nguyên
            Tội nhân tắm mình dưới suối huyết nầy, sạch hết mọi gian ác liền”
            “Tôi hân hoan ngợi khen dòng huyết báu.
            Đã tuôn vì tội nhân khắp hoàn cầu
            Tôn vinh Con độc sanh từ Cha thánh,
            Đã mang lằn đòn đặng chữa tôi lành”
            “Tuy xưa tôi lang thang đi xa chuồng,
            Tâm linh cưu mang khổ đau lo buồn,
            Xin Chiên Con gọi tôi bằng huyết quí
            Ắt tâm tôi tin anh tuyết khôn bì”

VII. Rửa chơn tỏ ra nhu cần phải có sự thanh tẩy liên tục nơi chúng ta.

            Chúa Jêsus đã đến với một thế giới có hai bàn chơn bẩn thỉu.
            Hành trình của chúng ta qua cuộc sống thì bẩn thỉu hơn là chúng ta nghĩ. Bạn không bao giờ biết mình sẽ bước vào đâu để bỏ lại sự bẩn thỉu và lem luốt của mình. Chúng ta không thích nghĩ đến việc ấy, song đấy lại là sự thực. Bất luận chúng ta tìm cách giữ sạch khó khăn đến ngần nào, hết thảy chúng ta đều bẩn thỉu hơn là chúng ta nghĩ, và chúng ta kết thúc mỗi ngày càng bẩn thỉu hơn khi chúng ta khởi sự.
            Đấy là lý do tại sao Chúa Jêsus bảo Phierơ rằng dù ông đã được sạch rồi, hai chơn ông vẫn cần phải được rửa cho. Ai đã tắm rồi, chỉ cần rửa chân, thì được sạch cả (câu 10). Hai từ ngữ khác nhau được sử dụng ở đây – một, ý nói tới việc tắm trọn vẹn và từ ngữ kia nói tới việc rửa chi thể nào đó. Đến với Đấng Christ giống như đi tắm vậy. Chúng ta được kể là thanh sạch khi tội lỗi của chúng ta bị đời đi. Nhưng chúng ta vẫn còn cần sự thanh tẩy bởi huyết của Đấng Christ.

Bất luận chúng ta tìm cách giữ sạch khó khăn đến ngần nào, hết thảy chúng ta đều bẩn thỉu hơn là chúng ta nghĩ.

            Điều nầy phác họa cả hai: tình trạng bẩn thỉu hàng ngày của chúng ta do tội lỗi và nhu cần liên tục của chúng ta về sự thanh tẩy. Chúng ta tiếp thu từ bài học nầy rằng chúng ta chỉ cần được cứu có một lần. Nhưng vì chúng ta phạm tội mỗi ngày, chúng ta cần sự thanh tẩy mỗi ngày. Chúng ta cần loại bỏ sự dơ dáy ra khỏi hai bàn chơn của chúng ta.
            Khi chúng ta đến với Đấng Christ, tội lỗi của chúng ta sẽ bị dời đi cho đến đời đời. Chúng ta chúng ta đang sống trong một thế giới bẩn thỉu, chúng ta cần sự thanh tẩy mỗi ngày.
            Sự tái sanh không thể được lặp đi lặp lại.
            Sự thanh tẩy phải được lặp đi lặp lại.
            Hãy suy nghĩ về dòng sự sống của bạn 24 giờ qua xem:
            Bạn đã nói ra những việc mà bạn không nên nói ra.
            Bạn đã đáp ứng không tử tế hay quá nhanh.

Nhờ sự chết đổ huyết ra của Ngài trên thập tự giá, Đấng Christ cung ứng mọi sự chúng ta có cần, từ bây giờ cho đến đời đời.

            Bạn đã làm nhiều việc mà bạn không nên làm.
            Bạn đã bỏ qua những hành động thương xót.
            Bạn chưa được trọn vẹn, tôi cũng thế.
            Đấy là lý do tại sao chúng ta cần những gì Chúa Jêsus cung ứng cho. Chúng ta cần được thanh tẩy từng ngày một. Chúng ta cần ơn cứu rỗi nào cất bỏ tội lỗi đi và cung ứng sự thanh tẩy hàng ngày. Chúa Jêsus làm cho chúng ta thích ứng với thiên đàng, Ngài dời đi tội lỗi, và hàng ngày Ngài thanh tẩy khỏi chúng ta từng tội lỗi một khi chúng ta kêu cầu nơi Ngài (1 Giăng 1:9). Cho nên, nhờ sự chết đổ huyết ra của Ngài trên thập tự giá, Đấng Christ cung ứng mọi sự chúng ta có cần, từ bây giờ cho đến đời đời.
            Trong nhiều năm trời tôi có nghe Mục sư Martin Luther nói rằng “phạm tội thật táo bạo”, nhưng tôi chưa hề biết nội dung câu nói đó. Thế rồi tôi đến với phần trưng dẫn nầy trích từ bức thư của Luther viết cho bạn ông là Philip Melanchthon vào ngày 1 tháng 8 năm 1521:

Chúng ta không phải là hạng tội nhân tưởng tượng đâu! 

            Đức Chúa Trời không cứu người nào chỉ là hạng tội nhân tưởng tượng. Là một tội nhân, và tội lỗi của bạn là rất mạnh, nhưng hãy khiến cho lòng tin cậy của bạn nơi Đấng Christ được mạnh mẽ hơn, và sự vui mừng nơi Đấng Christ, Ngài là Đấng thắng hơn tội lỗi, sự chết, và thế gian. Chúng ta sẽ phạm tội đang khi chúng ta còn sống ở đây, vì cuộc sống nầy không phải là nơi sự công bình ăn ở. . . .Vấn đề là nhờ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời chúng ta đã công nhận Chiên Con là Đấng cất tội lỗi thế gian đi. Không một tội lỗi nào có thể phân cách chúng ta ra khỏi Ngài, cho dù chúng ta giết người hay phạm tội tà dâm cả ngàn lần mỗi ngày. Có phải bạn nghĩ một Chiên Con được tôn vinh như vậy đã trả một giá cực nhỏ với sự sự hy sinh ít ỏi cho tội lỗi của chúng ta?
            Nếu chúng ta bị sốc bởi điều nầy, có lẽ chúng ta chưa bao giờ lượng được chiều sâu của tội lỗi chúng ta. Rồi cho tới chừng nào chúng ta nhìn thấy chiều sâu của tội lỗi chúng ta, chúng ta sẽ chẳng bao giờ lượng được sự hy sinh cao cả mà Chúa chúng ta đã thực hiện khi Ngài chịu chết trên thập tự giá.
            Nầy anh chị em ơi, chúng ta không phải là hạng tội nhân tưởng tượng đâu!
            Chúng ta là hạng tội nhân trầm trọng, chúng ta cần một Cứu Chúa cao trọng. Và chúng ta có một Cứu Chúa trong Đức Chúa Jêsus Christ, Ngài đã hạ thấp đến nỗi Ngài không xấu hổ mà rửa hai bàn chơn bẩn thỉu của chúng ta.