Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2013

Philíp 3:12-14: "Mục Tiêu Của Người Trung Tín"


"Mục Tiêu Của Người Trung Tín"
Philíp 3:12-14
           
            Những vận động viên Olympic đều là những cá nhân thật tuyệt vời.  Cái điều khiến cho tôi phải kinh ngạc nhất là sự tập trung, cống hiến và mục tiêu cần thiết để biến họ thành những nhà chiến thắng cấp thế giới.  Các vận động viên nầy đã được tập huấn và làm việc mỗi ngày trong nhiều năm trời để tham gia vào vòng đua tranh nầy.  Tất nhiên, cũng một thể ấy được gán cho bất kỳ Vận Động Viên Vô Địch nào ở các môi trường khác trong cuộc sống.  Sự xác định và mục tiêu vốn là cần thiết để đạt tới các mục đích cao cả nhất.
            Điều chi là thật trong nhiều lãnh vực của cuộc sống như thế cũng là thật trong sự theo đuổi quan trọng nhất của cuộc sống: ấy là theo đuổi mối quan hệ trọng đại với Đức Chúa Trời.  Trong phân đoạn Kinh thánh trên, Phaolô nói cho chúng ta biết để lớn lên trong vai trò Cơ đốc nhân, chúng ta phải nhắm vào mục đích và xác định.  Chúng ta sẽ không tấn tới nếu chúng ta không làm việc để lớn lên.  Được cứu rỗi là nhơn đức tin bởi ân điển, song sự lớn lên đòi hỏi chúng ta phải cộng tác với Đức Chúa Trời.
            Ơ câu 10, Phaolô viết: cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài Nếu bạn còn nhớ, tôi muốn chỉ ra Phaolô đang nói:
· Tôi muốn nhận biết Đấng Christ theo một phương thức thực tế và riêng tư.
· Tôi muốn bắt đầu kinh nghiệm quyền phép, sự tự do và sự vui mừng xảy đến khi chúng ta sống theo ánh sáng của sự phục sinh.
· Tôi muốn có thái độ mà Chúa Jêsus đã có khi đối diện với những thời điểm khốn khó trong cuộc sống.  Tôi muốn nhận biết cảm xúc của sự bình an hơn cả sự bình an mà thế gian cung ứng cho.
· Và tôi muốn sống NGAY BÂY GIỜ là một người nhận lãnh sự sống lại từ kẻ chết ở mặt bên nầy của mồ mả.
            Đây là các mục tiêu của Phaolô.  Trong những câu Kinh thánh theo sau đó, Phaolô cung ứng cho chúng ta một số hướng dẫn cho biết cách thức mà chúng ta sẽ nhắm vào hầu tấn tới về mặt thuộc linh.  
            “Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi, hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu, nhưng tôi đang chạy hầu cho giựt được, vì chính tôi đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi. Hỡi anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ” [Philíp 3:12-14].

CHÚNG TA PHẢI NHẬN BIẾT ĐỨC CHÚA TRỜI CÓ MỘT MỤC TIÊU CHO ĐỜI SỐNG CỦA CHÚNG TA.
            Phaolô nói: “tôi đang chạy hầu cho giựt được, vì chính tôi đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi”. Cụm từ tôi muốn bạn xem xét là cụm từ: đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi”. Phaolô vốn hiểu rõ Chúa đã giựt lấy sự sống của ông với một mục tiêu trong trí. Và điều nầy là thực cho hết thảy chúng ta nữa…

            Rôma 8:28 là một câu Kinh thánh mà ai nấy đều nằm lòng ở đây.  Câu 29 thì ít có người thuộc hơn.  Phaolô viết: Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định. Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em Bạn có nhìn thấy mục đích của Đức Chúa Trời khi kêu gọi chúng ta không Ngài muốn chúng ta được biến đổi ra giống với ảnh tượng của Con Ngài Ao ước của Đức Chúa Trời, ấy là chúng ta được lớn lên giống như Đấng Christ.

            Tại sao điều nầy là quan trọng? Thứ nhứt, quan trọng là phải nhận biết rằng mục tiêu của Đức Chúa Trời không những là để "tiếp nhận” chúng ta.  Mà Ngài còn tìm cách để "cứu chúng ta" nữa, Ngài đang làm việc để "biến đổi chúng ta".  Cơ đốc nhân là một người đang tấn tới chỗ trở nên giống như Đấng  Christ. Chúng ta đang trên đường tiến tới sự nên thánh.  
            Thứ hai, quan trọng là do nhận biết rằng Đức Chúa Trời có một công việc cho chúng ta phải lo làm.  Ngài đã kêu gọi chúng ta HÃY ĐẾN VỚI một việc.  Chúng ta là một chi thể trong chương trình của Ngài.  Đức Chúa Trời VỐN có một chương trình dành cho đời sống của bạn. Chương trình của Ngài sẽ dẫn bạn đến với sự vui mừng, phu phỉ, thoả mãn và phước hạnh cho đến đời đời.

 

HÃY NHẬN RA RẰNG BẠN CHƯA ĐẠT TỚI

            Không những Phaolô công nhận rằng Chúa có một mục đích lớn lao dành cho đời sống của ông, ông nhận ra rằng ông chưa đạt tới được mục tiêu đó.  Phaolô nhận biết ông chưa phải là điều mà ông phải trở thành.  Ông ý thức được mọi lầm lỗi của mình cùng những lãnh vực mà ở đó ông vẫn còn cần phải lớn lên. Cụm từ nói tới "trọn lành" cũng có ý nói tới sự "hoàn hảo".  Phaolô công nhận rằng ông chưa tới  được mức đến.  Mục sư Chuck Swindoll nói rõ hơn như sau: "Đức Chúa Trời đang tìm kiếm sự tiến bộ chưa hoàn hảo".
            Làm ơn lắng nghe điều nầy đi.  Có người ngã lòng vì họ cảm thấy họ chưa tiến bộ theo cách nhanh gọn được. Cuộc sống Cơ đốc là một cuộc sống của sự lớn lên và trưởng thành . . . y như chính bản thân sự sống vậy. Lớn lên cần phải có thời gian.  Giống như Phaolô cần mẫn làm việc cùng với đức tin của mình, ông vẫn chưa đạt tới đích. Đừng vội ngã lòng . . . cứ bươn tới đàng trước đi.  Sự lớn lên đòi hỏi phải có thời gian.
            Chúng ta phải để cho Đấng Christ đánh giá bản thân mình. Ngài muốn chúng ta phải sống thanh sạch trong hành động, trong cách ăn nói, trong lối suy nghĩ, trong các thái độ, trong những mối quan hệ của chúng ta. Ngài muốn chúng ta phải kính mến Ngài nhiều hơn bất cứ điều chi khác. Ngài muốn Ngài phải ở trong địa vị đầy ảnh hưởng nơi từng phần cuộc sống của chúng ta. Nếu bạn hiểu rõ tiêu chuẩn mà bạn sẽ sống theo, giống như Phaolô, hãy hiểu rằng bạn chưa đạt tới đích ấy.

ĐỪNG SỐNG THEO QUÁ KHỨ  
Điều nầy không nói tới việc gì!?!
            Phaolô cho chúng ta biết rằng nếu chúng ta muốn nhắm vào sự lớn lên, chúng ta phải “quên quá khứ” đi.  Chắc chắn là Phaolô không bảo chúng ta đừng nhớ tới bất cứ việc gì.  Nhất định chúng ta sẽ nhớ chúng ta là ai trước khi Đấng Christ tìm gặp chúng ta.  Chúng ta sẽ nhớ lại những thời điểm chúng ta đã nhìn thấy sự thành tín của Đức Chúa Trời đã được bày ra. Chúng ta cần phải nhớ tới những sai sót mà chúng ta đã vi phạm để chúng ta có thể tránh né chúng trong tương lai. 
            Phaolô cũng không bảo chúng ta rằng chúng ta không phải làm phu phỉ mọi trách nhiệm của quá khứ.  Nếu chúng ta đã làm buồn lòng ai đó, chúng ta phải tìm cách sửa sai ngay.  Nếu chúng ta đã lấy cắp từ ai đó, chúng ta cần phải làm sự bồi thường. Nếu chúng ta có nan đề với ai đó, chúng ta cần phải tìm cách làm hoà lại.   
Những gì điều nầy không muốn nói tới
            Khi Phaolô nói tới việc quên, ông cho chúng ta biết rằng chúng ta không thể quên và không phải sống trong quá khứ mà chi.  Những gì đã xảy ra trong quá khứ đều là quá khứ và chúng ta phải bươn tới đàng trước Có hai lý do chúng ta cần phải quên đi quá khứ.  Thứ nhứt, chúng ta có một khuynh hướng vấn vương với quá khứ Chúng ta sẽ lưu giữ kinh nghiệm không tốt và nó sẽ trở thành cái neo kéo trì chúng ta xuống Chúng ta sẽ nhớ tới sự tổn thương mà ai đó đã gây ra và điều đó sẽ tiêu nuốt chúng ta Chúng ta sẽ nhớ tới thời điểm khi chúng ta vấp ngã và chúng ta sẽ quyết định không bao giờ thử lại Chúng ta xử lý thể nào với những thời điểm đau đớn của quá khứ sẽ quyết định cách thức chúng ta sinh sống trong tương lai. Chúng ta phải tiếp thu từ quá khứ và rồi tiến tới đàng trước. Những gì Đức Chúa Trời đã tha thứ sẽ chẳng bao giờ được xem là một gánh nặng nữa.
            Thứ hai, chúng ta có khuynh hướng yên nghỉ trên quá khứ.  Chúng ta sẽ xem lại những lần đắc thắng trong quá khứ và lấy làm hài lòng nhớ lại thay vì tiếp tục tiến tới phía trước Điều nầy đang xảy ra cho nhiều người.  Phaolô quyết định rằng ông sẽ không yên nghỉ trên những thành tựu của quá khứ, nhưng luôn luôn nhìn tới đàng trước với những gì cần phải thực hiện.  Có những Cơ đốc nhân luôn luôn nói tới những khoảnh khắc long trọng của đức tin trong quá khứ Họ nói tới mối quan hệ của họ với Đấng Christ VỐN mật thiết là dường nào! Mọi sự nầy đều nằm trong thì quá khứ.  Chúng ta phải quên đi quá khứ và nhắm vào tương lại.
            Các đội thể thao đều có nan đề nầy.  Họ có chiến thắng rất lớn và rồi mờ dần đi từ chiến thắng ấy . . . và trong trận đấu kế tiếp họ để thua một đối thủ kém cõi hơn vì họ đánh mất tiêu điểm của mình.  Cũng thực như thế ngay cả trong việc giảng đạo.  Tôi thường cho phép bản thân mình để ra ngày Chúa nhật và thứ Hai để thưởng thức hay tiếp thu từ kinh nghiệm thờ phượng của chúng ta. Nhưng đến trưa thứ Hai tôi chẳng còn để ý đến nó nữa.  Mục tiêu khi ấy là nhắm vào tuần tới Tôi đã thấy mình phải bươn tới đàng trước chớ không phải lùi lại đàng sau.

PHẢI CHỦ ĐỘNG VỀ SỰ LỚN LÊN CỦA BẠN
            Phaolô cho chúng ta biết ông đang “bươn tới”. Đây cũng chính là cụm từ được sử dụng ở câu 6 khi Phaolô nói tới sự bắt bớ sốt sắng của ông đối với hội thánh đầu tiên.  Cũng chính với cường độ đó mà Phaolô theo đuổi chương trình của Đức Chúa Trời dành cho đời sống của ông. Phaolô cũng nói: "tôi đang làm chính việc nầy".  Ông là người của lý trí. Phaolô không bị phân tâm.  Ông vốn trong sáng đối với chỗ mà ông hướng tới.
            Ông cho chúng ta biết rằng ông đang bươn tới đàng trước và ông đang đến gần với mục tiêu của mình. Không những ông rất tập trung, ông còn nôn nả về phía trước nữa.  Hình ảnh cho thấy giống hình ảnh của cuộc chạy thi vậy. Bạn nhìn thấy người ta trên đường chạy nghiêng mình về phía trước để đánh bại đối thủ của họ.  Đây là hình ảnh Phaolô sử dụng nói tới sự ông ao ước muốn tấn tới về mặt thuộc linh.
            Một số đóng góp quan trọng nhất của con người đã đến từ nhân vật quyết định rằng không một hy sinh nào quá lớn lao và chẳng một nổ lực nào quá cao cả không đạt được mục tiêu mà họ đề ra phải lo làm. Edward Gibbon đã sử dụng 26 năm viết quyển The History of the Decline and Fall of the Roman Empire [Lịch sử sự suy thoái của Đế quốc Lamã]. Noah Webster đã cặm cụi làm việc trong 36 năm mới cho ra đời ấn bản tự điển đầu tiên của ông. Cũng phải nói rằng nhà hùng biện Cecilo người Rome đã tập tành trước bạn bè của ông mỗi ngày trong 30 năm để làm cho việc phát biểu của ông trước quần chúng được hoàn hảo. Đúng là sự kiên nhẫn! Đúng là sự kiên trì! 
            Giờ đây, hãy suy nghĩ về việc chúng ta đã đặt bao nhiêu năng lực vào công việc của Chúa. Sự ví sánh có thể gây bối rối đấy. Và việc ấy sẽ dẫn chúng ta tới chỗ phải tự hỏi lòng một số câu có tính cách dò xét: Tại sao sự phục vụ của chúng ta cho Đấng Christ đôi khi được thực hiện với một tư thế nửa vời? Tại sao những việc khác luôn luôn xảy đến trước thời điểm của chúng ta với Chúa? Tại sao chúng ta sửa soạn tỉ mỉ hơn về mọi trách nhiệm của mình trong thế gian hơn là chúng ta chuẩn bị mọi trách nhiệm của mình trong hội thánh? 
            Sự lớn lên sẽ không xảy ra nếu chúng ta để cho đời sống thuộc linh của mình bị rối reng.  Về mặt thực tiễn, tỉ mỉ có nghĩa là:
· dành thì giờ đến với Đức Chúa Trời trong bảng kế hoạch của chúng ta
· dành thì giờ để đọc Kinh thánh
· sắp xếp thời gian cho sự cầu nguyện
· biến sự thờ phượng và phục vụ làm ưu tiên một trong lịch sinh hoạt của chúng ta
· thực thi đánh giá thuộc linh đều đặn và thành thực trong đời sống của chúng ta
· gạt bỏ hết một số theo đuổi về đời nầy
· tự theo đuổi, nghiên cứu, và đọc Kinh thánh để lớn lên
· và dám tẻ tách ra những gì luôn là tiện nghi và an nhàn
            Một vị huấn luyện viên thành công cho biết rằng ông đã sống bởi một tín điều rất đơn sơ mà ông đã tìm gặp một thời điểm kia:
Cứ tiến tới. 
Không một điều gì trong thế gian 
Có thể thay thế cho sự kiên trì. 
Tài năng sẽ không; 
Không có gì là thông thường hơn
Hạng người không thành công 
Với tài năng. 
thiên bẩm sẽ không; 
Thiên tài sẽ không được ban thưởng
Gần như là phương châm. 
Học vấn sẽ không; 
Thế gian thì đầy dẫy với 
Những kẻ bị bỏ rơi có học vấn. 
Bền đổ và xác quyết 
Duy nhất là quan trọng. 

HƯỚNG MẮT NHÌN VÀO MỤC TIÊU
            Phaolô cho chúng ta biết ông phải luôn hướng mắt mình nhìn vào giải thưởng.  Sự thể giống như vận động viên Olympic nào tập luyện không mệt mỏi để đoạt lấy huy chương vàng tại giải Olympic. Khi họ thấm mệt, họ hình dung mình sẽ ra sao khi đứng trên bục và lắng nghe bài quốc ca của xứ sở mình được cất lên.  Bức tranh ấy cứ thôi thúc họ.
            Cách đây nhiều năm, một đứa trẻ da đen lớn lên tại Cleveland, trong một gia đình mà về sau ông mô tả là: "nghèo xơ xác nhưng giàu có về mặt thuộc linh". 
            Một ngày kia, một vận động viên nổi tiếng, Charlie Paddock, đã đến với ngôi trường của mình trao đổi với các học trò. Lúc ấy Paddock đã được xem là: "nhân vật chạy nhanh nhất từng sinh sống". Ông nói với những đứa trẻ: "Hãy nghe đây! Các em muốn mình sẽ ra sao nào? Các em hãy nói ra mong muốn đó và rồi tin rằng Đức Chúa Trời sẽ giúp các em trở thành". Cậu bé kia quyết rằng mình cũng muốn trở thành người chạy nhanh nhất ở trên đất. 
            Cậu ta bước tới gần vị huấn luyện viên rồi nói cho ông ấy biết về giấc mơ mới của mình. Vị huấn luyện viên nói: "Cũng rất hay khi có một giấc mơ, song để dạt tới giấc mơ ấy em phải bắc một cái thang để trèo lên đó. Đây là cái thang cho giấc mơ của em. Bậc thứ nhất là quyết định! Bậc thứ hai là cống hiến! Bậc thứ ba là kỷ luật! Còn bậc thứ tư là thái độ!"        
            Kết quả của mọi động cơ ấy, anh ta tiếp tục đoạt bốn huy chương vàng vào Thế Vận Hội Bálinh năm 1936. Anh ta thắng cuộc chạy nước rút 100m và phá vỡ kỷ lục thế vận và thế giới bộ môn chạy 200m. Kỷ lục nhảy xa của anh ta đã kéo dài trong 24 năm. Tên của anh ta ư? Jesse Owens[James S. Hewett, Illustrations Unlimited (Wheaton: Tyndale House Publishers, Inc, 1988) pp. 26-27]. 
            Thế thì đâu là giải thưởng thôi thúc chúng ta luôn chứ? Hình ảnh nào chúng ta đang giữ trên trán, trong tâm trí chúng ta vậy? Có thể tôi nên tô điểm một vài bức tranh ở đây:
· hình ảnh đang đứng trước Đức Chúa Cha nghe câu: "Được Lắm!"
· Sau khi ôn lại cuộc sống mình mà chẳng có chút hối tiếc hay xấu hổ nào hết.
· Bị vây quanh bởi những người mà đời sống của họ đã được chuộc một phần vì cớ sự làm chứng trung tín của bạn.
· Có ai đó nói bạn đã sống kiên nhẫn và trung tín trong tang lễ của bạn.
· Niềm vui của giây phút đầu tiên ấy khi bạn gặp  gỡ Chúa Jêsus

Ý NGHĨA
Dành cho Hội thánh
            Về mặt thực tế, sứ điệp nầy muốn nói gì với hội thánh của chúng ta. Tôi nghĩ có vài bài học rất hay ở đây.  
· mặc dù chúng ta rất biết ơn về sự lớn lên và những ơn phước mà chúng ta đã nhìn thấy, chúng ta phải luôn luôn trông mong những cơ hội mới để phục vụ và lớn lên.
· chúng ta phải thường xuyên đánh giá chức vụ của mình và gạt qua một bên những ai phục vụ cho ý đồ của họ và phát triển những ai làm thoả mãn những nhu cần mới ở xung quanh chúng ta.
· chúng ta phải luôn coi chừng chúng ta đánh giá cao những truyền thống của mình nhiều đến nỗi chúng trở thành chướng ngại vật cho sự lớn lên. Thắc mắc phải luôn là: "Việc nầy sẽ làm ngăn cách Nước Đức Chúa Trời chăng?" Thay vì thế: "Phải chăng đây luôn là cách chúng ta đã làm công việc ấy?"
· chúng ta phải nhớ rằng mục tiêu của chúng ta trong vai trò một hội thánh không phải là một con số tham dự đặc biệt đâu, mục tiêu của chúng ta là tôn vinh và làm vinh hiển của Đấng Christ trong mọi sự chúng ta lo làm. Khi chúng ta theo đuổi mục tiêu nầy, chúng ta chắc chắn sẽ nhìn thấy sự lớn theo theo số lượng, mà số lượng không phải là mục tiêu của chúng ta, chúng chỉ là một công cụ để đo lường mà thôi. Chúng ta có thể có số lượng đấy . . . song chúng ta không muốn số lượng . . .chúng ta muốn có mối quan hệ với Đấng Christ.

Dành cho cá nhân
            Nhiều người bắt đầu một chế độ ăn uống hay khởi sự luyện tập mà chẳng bao giờ thông suốt. Nhiều người khởi sự đọc một quyển sách song chẳng bao giờ hoàn tất.  Có người bắt đầu luyện tập trong một lãnh vực nhưng chịu thua khi lãnh vực ấy quá khó khăn. Có người lập gia đình rồi thoát ra khỏi đó khi cuộc hôn nhân quá trăn trở.  Và có người bị cuốn hút bởi đức tin trong một thời gian ngắn và rồi buồn chán và nhảy qua một việc khác cũng làm cho họ phấn khích một thời gian ngắn.  Có phải bạn ưa thích điều nầy?  Đức tin của bạn có hời hợt không? Có phải bạn là một môn đồ tạm thời hay bạn đang bước theo Đấng Christ?
            Người nào chịu thua sẽ chẳng nhận được lợi ích đến từ chỗ chịu khó làm việc.  Người nào ra rời cuộc hôn nhân sẽ chẳng bao giờ có được mối quan hệ chất lượng.  Người nào không chịu luyện tập và chế độ ăn uống sẽ hy sinh sức khoẻ tốt đẹp của mình. Người nào không học đến nơi đến chốn sẽ chẳng bao giờ có được những thứ mà họ có thể học được. Và người nào rời bỏ cuộc chạy để giựt lấy giải thưởng trên trời sẽ chẳng bao giờ có được niềm vui của sự đồng đi với Đấng Christ.
            Vì vậy, đâu là một việc mà bạn đang chú tâm vào? Bạn đang chú trọng vào mọi thứ vật chất ư?  Trả hoá đơn ư? Kiếm quyền lực sao? Có được đỉnh cao khoái lạc sao? Bạn không muốn có thêm từ cuộc sống hơn điều nầy sao?  Hãy hướng lên cao hơn đi! Hãy bươn tới mà đoạt lấy giải thưởng! Hãy tìm cách nhận biết Ngài tốt hơn và đầy đủ hơn. Chúa Jêsus bảo chúng ta rằng khi chúng ta trước hết tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời, mọi việc khác chúng ta đang lo toan đến sẽ được cho thêm.
            Một số người trong quí vị đang ở gần mức đến. Cuộc sống đời nầy của bạn đang ở gần với phần kết của bạn. Đừng đổ dốc lúc bây giờ nhé!  Bây giờ là thời điểm để "đá" và hoàn tất thật mạnh mẽ. Mọi việc khác của bạn chỉ đang khởi sự mà thôi.  Đừng bỏ cuộc vì cuộc chạy quá khó khăn. Hãy làm việc . . .phải kiên nhẫn. Sự lớn lên cần phải có thời gian. Và những thứ khác đang hiện hữu với hơi nóng của cuộc chạy. Đừng nãn lòng. Hãy bươn tới đi. Tôi biết điều nầy có nhiều lúc gây mệt mỏi lắm. Hãy nhắm vào mục tiêu . . . hãy phấn đấu hoàn tất sao cho tốt đẹp.
            Phaolô đang khích lệ chúng ta đạt được nhiều danh hiệu hơn là bảng danh sách của nhà thờ. Ông không muốn chúng ta chỉ gọi mình là Cơ đốc nhân hay nghĩ mình là Cơ đốc nhân. Ông muốn nhận biết Đấng Christ và muốn chúng ta cũng phải trở thành hạng môn đồ thật của Chúa Jêsus nữa. Nguyện Đức Chúa Trời ưng nhận bạn và tôi cũng trở thành hạng môn đồ thể ấy nữa.




Philíp 3:13-14: "BA CÁI NHÌN MÀ MỖI HỘI THÁNH CẦN PHẢI CÓ


Philíp 3:13-14
BA CÁI NHÌN
MÀ MỖI HỘI THÁNH CẦN PHẢI CÓ
            Phần giới thiệu: Trong các câu Kinh thánh nầy ở đây trong sách Philíp chương 3, chúng ta thấy Sứ đồ Phaolô đang đưa ra bản kê thuộc linh của cuộc đời ông. Ông nói tới phổ hệ của ông ở các câu 4-6. Trong mấy câu nầy, Phaolô cho rằng nếu có ai dám xưng ra mọi việc làm như kỷ lục của mình, thì Phaolô chính là người ấy. Tuy nhiên, ở các câu 7-12, Phaolô nói cho chúng ta biết mọi sự ấy ông đã kể như là vật ô uế ở trước mặt Đức Chúa Trời. Ông nói cho chúng ta biết việc quan trọng nhất trong cuộc đời là mối quan hệ cá nhân với Đức Chúa Jêsus Christ kìa. Để khi chúng ta đến trước mặt Đức Chúa Trời trên Thiên đàng, chúng ta sẽ không xuất hiện ở đó  với sự công bình riêng đầy tì vít, tội lỗi của chúng ta, (Êsai 64:6), nhưng chúng ta sẽ dám đứng trước mặt Đức Chúa Trời với sự công bình của Đấng Christ và được tiếp nhận vào trong Thiên đàng trên cơ sở đó, (Êphêsô 1:6). Vấn đề mà chúng ta tìm gặp ở đây, ấy là Phaolô, với mọi thành tựu cùng với phổ hệ thuộc linh quan trọng của ông vẫn chưa được thoả với chỗ mà ông đương đứng với Chúa, các câu 12-13a. Khi Phaolô bắt đầu nhìn vào cuộc đời mình, ông thấy mình là một người chưa đạt tới và là người đang đứng đấy với nhu cần về sự cải thiện. Thực vậy, ông đang mô tả từng người ở đây hôm nay. Hầu hết chúng ta đều có bằng chứng cho thấy rằng chúng ta được cứu bởi ân điển và đang trên đường mình đến với Thiên đàng. Tuy nhiên, tôi dám nói rằng không một cá nhân nào trong chúng ta thoả lòng với chỗ mà chúng ta đang đứng ở trước mặt Chúa. Bất kỳ ai, người nào, đang ở trong sự nguy hiểm lớn lao ngay trọng tâm đời sống thuộc linh của mình (nam hay nữ). Khi chúng ta thấy thoả lòng, chúng ta rơi vào chỗ tự mãn và khi chúng ta tự mãn, chúng ta thôi không lớn lên như một người tin Chúa nữa. Đang khi điều nầy là thực cho mỗi cá nhân, nó rất thực cho Hội thánh trong vai trò một tổng thể nữa. Tôi tin rằng chúng ta ở đây, tại Hội thánh địa phương nầy, đều có nhiều điều để dâng lên Chúa lời cảm tạ. Đức Chúa Trời đã chúc phước cho chúng ta thật nhiều và chúng ta đã nhìn thấy Ngài thực thi nhiều việc diệu kỳ và đầy phấn khích ở đây trong các năm qua. Ngay bây giờ cũng vậy, chúng ta đang nhìn thấy hội thánh lớn lên và chúng ta đang kinh nghiệm mọi phước hạnh của Ngài cả về mặt thuộc thể cũng như thuộc linh. Tuy nhiên, luôn luôn có mối nguy hiểm cho thấy chúng ta sẽ rơi vào chỗ tự mãn rồi thấy thoả lòng với mọi sự như vốn có đây. Vì vậy, sáng nay tôi muốn cung ứng cho bạn ba cái nhìn mà Hội thánh địa phương cần phải có để giữ đừng sa vào tình trạng tự mãn, tình trạng ấy đã gài bẫy được nhiều hội thánh khác rồi đó.
            Nếu chúng ta nắm bắt được ba cái nhìn nầy, chúng ta sẽ không hề thấy thoả mãn thực sự, nhưng chúng ta sẽ luôn luôn phấn đấu để tiến xa hơn trong Chúa Jêsus. Tôi nguyện rằng khi rao giảng bài nầy, hội thánh địa phương sẽ không bao giờ rơi vào chỗ tự mãn, nhưng chúng ta sẽ luôn luôn phấn đấu để đến gần Chúa Jêsus hơn và ngày càng trở nên hạng người mà Ngài muốn chúng ta phải trở thành.
I. NHÌN VÀO QUÁ KHỨ (câu 13a)
A. Cái nhìn ôn lại: vấn đề mà tôi đang nói tới là nắm bắt một kỷ lục thuộc linh. Trong vai trò mỗi cá nhân và là một tập thể hội thánh, chúng ta nên liệt kê ra mọi thành tựu, những thất bại, các kỳ vọng, những ước mơ, v.v… Chúng ta cần phải nhìn lại chỗ mà chúng ta xuất phát và thể nào chúng ta đến được chính vị trí nầy.
1. Là cá nhân, cái nhìn lui của bạn có bao gồm cả ơn cứu rỗi không? Nếu có, thế thì hãy ngợi khen Chúa vì bạn đã được cứu và hãy vui mừng nơi đời mới của mình trong Đấng Christ. Nếu chưa, thế thì hãy làm một việc về ơn ấy, hãy đến với Chúa Jêsus ngay giờ nầy và được cứu! Quá khứ của bạn có gồm cả những thất bại không? Thành công? Những mơ ước bị tan tác? Các mục tiêu mơ hồ chăng? Thường thì rất là đau đớn khi ôn lại quá khứ của chúng ta, nhưng rất là nâng đỡ khi nó giữ chúng ta không phạm phải những sai lầm một lần nữa! Quả là đau đớn lắm đấy, nhưng hãy nhìn lại rồi nắm bắt lấy kỷ lục của cuộc đời mình.
2. Là tập thể hội thánh, cái nhìn lại của quí vị bao gồm cả những thời điểm khi chúng ta, là một tập thể, đã phạm nhiều sai lầm? Khi nào thì chúng ta thất bại chứ? Khi nào chúng ta đạt được một cấp độ thành công? Có những mục tiêu mơ hồ không? Có những đời sống bị tan tác trong hội thánh nầy chăng? Một lần nữa, những việc nầy khi nhớ đến thì đau đớn lắm, nhưng đau đớn là bước thứ nhứt trong việc chữa lành những vết thương của quá khứ!
B. Tiếp thu (nhớ lại). Con người khôn ngoan và hội chúng khôn ngoan sẽ nhìn lại quá khứ rồi sẽ tiếp thu từ đó. Chúng ta sẽ làm hết sức mình, để thấy rằng chúng ta sẽ không bao giờ phạm vào việc lặp lại chính những sai trật đó nữa. Phải, hết thảy chúng ta làm mọi việc đều sai trái. Nhưng, chúng ta sẽ khôn khéo đủ để tiếp thu từ những việc ấy hầu cho chúng ta sẽ chẳng bao giờ phạm lại chúng một lần nữa!
C. Bỏ đi  (ăn năn rồi để cho nó đi đi). Nếu, trong bộ kỷ lục thuộc linh của bạn, bạn tìm gặp những lãnh vực thất bại cùng những thời điểm khi phạm phải sai trật, thế thì mọi sự ấy cần phải được bỏ đi ở chỗ chúng hiện hữu trong quá khứ! Khi chúng ta phạm tội ở trước mặt Đức Chúa Trời, câu trả lời nằm trong sự ăn năn. Nếu chúng ta bằng lòng xây khỏi những tội lỗi đó, khi ấy Đức Chúa Trời sẽ bằng lòng tha thứ cho chúng ta, (I Giăng 1:9). Rồi, nếu chúng ta đã ăn năn các tội lỗi ấy, và làm mọi sự trong năng lực của chúng ta để sửa chúng lại, chúng ta đang bôi xoá chúng ra khỏi cặp mắt của Chúa, Rôma 8:33-34! Mọi sự tôi muốn nói là đây: Đừng đánh đập mình cho đến chết vì mọi việc đã xảy ra ngày hôm qua, nếu bạn đã ăn năn chúng và sửa ngay chúng lại. Hãy tẻ tách ra khỏi chúng rồi bỏ chúng lại sau lưng!
1. Là cá nhân, chúng ta thường xuyên đánh đập mình về những vụ việc đã được thực thi thậm chí trước khi chúng ta được cứu. Phải, không nên sống như thế. Rốt lại, người nào đã làm mọi việc đáng kinh đó thì phải chết, và một người mới đã chiếm lấy chỗ của hắn; Rôma 6:8; II Côrinhtô 5:17. (Minh hoạ: Một số người dường như không thể vượt qua được quá khứ của mình).
2. Là hội thánh, luôn luôn có mối nguy hiểm của việc nhìn lại đó. Có quá nhiều hội thánh đã tự cho phép mình trở thành những cái vỏ ốc công bình về những điều mà họ đã từng làm. Khi điều nầy xảy ra, và một cái nhìn lạc hậu đã được nắm lấy, thường thì hội thánh và các thuộc viên trong hội thánh chỉ muốn tiếp tục sống trong quá khứ thay vì phấn đấu trong hiện tại. (Minh hoa: Có quá nhiều người sống với: "Tôi nhớ khi …"). (Minh hoạ: John Claypool thuật lại câu chuyện nói tới "hai ông thầy chùa Phật giáo đang đi trong giông bão. Họ đến một dòng suối đang cuồn cuồn chảy. Một thiếu nữ Nhật xinh đẹp mặc chiếc áo kimono đứng đó muốn băng qua phía bên kia, song lại sợ dòng nước cuốn đi.
"Một trong hai ông thầy chùa nói: 'Tôi có thể giúp cho cô không?
Cô thiếu nữ đáp: "Tôi cần băng qua dòng nước nầy”.
"Thầy tu đó bồng cô ta lên, vác trên vai mình, mang cô ta qua dòng nước cuồn cuộn ấy, rồi đặt cô ta xuống phía bên kia. Ông ta cùng người bạn đồng hành tiếp tục đi về phía tu viện.
Đêm đó, người bạn đồng hành với ông ta nói: 'Tôi có vấn đề muốn nói với ông đây. Là nhà tu theo Phật, chúng ta đã đưa ra lời thề không nhìn phụ nữ, không chạm đến thân thể của phụ nữ. Ở dòng suối kia, ông làm cả hai việc tất'.
"Nầy người anh em ơi', ông thầy tu kia đáp: 'Tôi đã đặt người thiếu nữ ấy xuống bên kia dòng suối. Còn ông thì cứ cưu mang nàng ấy ở trong tâm trí mình'.
            "Thật dễ bị ám ảnh với quá khứ bằng phí tổn của tương lai ").
3. Học biết thoát khỏi quá khứ rồi bỏ nó lại sau lưng. Nếu bạn không là một cá nhân, hay nếu chúng ta không là một hội thánh, quá khứ ấy chỉ phục vụ như một gánh nặng ngăn trở chúng ta để kéo trì chúng ta xuống, Hêbơrơ 12:1.
II. NHÌN VÀO HIỆN TẠI (các câu 13b-14)
A. Chúng ta đang sống như thế nào!?! (Minh hoạ: Phaolô đang làm hết sức mình để sống cho Chúa Jêsus. Ông đang "bươn tới" đàng trước. Minh hoạ: "Bươn" = "chạy theo một vật để bắt cho kỳ được nó". Đời sống Cơ đốc của Phaolô không phải là một đời sống thiếu hay đủ. Mọi sự ông làm đều làm cho Chúa Jêsus. Không một việc nào khác trong cuộc sống là quan trọng hơn việc sống cho Chúa). Có hai cách mà hết thảy chúng ta đáng phải sống.
1. Sống cho Chúa Jêsus; I Côrinhtô 13:31; Mỗi sinh hoạt, mỗi thái độ, từng hành động, mọi sự đều làm vì sự vinh hiển Ngài và tôn cao Ngài! Điều nầy áp dụng cho hội thánh nầy cũng như nó áp dụng cho từng cá nhân ở đây. Chúng ta phải sống cho Chúa Jêsus với mọi sự chúng ta có trong chúng ta. Có phải điều nầy đánh dấu đời sống của bạn chăng?
2. Bởi Chúa Jêsus – Galati 2:20 – Đây là chỗ mà nhiều Cơ đốc nhân và nhiều hội thánh chưa đạt tới. Chúng ta có khuynh hướng cố gắng thực thi những vụ việc "Cơ đốc" bằng sức riêng của mình. Thực vậy, chúng ta là vô quyền và chúng ta bất lực, Giăng 15:5. Khi chúng ta nhìn quanh nơi chúng ta đang sinh sống hôm nay là tập thể hội thánh và là mỗi cá nhân, chúng ta cần thấy chúng ta phải để cho Đấng Christ nắm lấy quyền chủ động hoàn toàn đời sống của chúng ta. Chúng ta cần Chúa Jêsus và chúng ta cần Ngài nắm lấy quyền làm chủ. Về mặt cá nhân, tôi chưa đủ ý thức để nhìn biết mình phải khởi động hội thánh nầy như thế nào đây, hay thậm chí chính đời sống của tôi nữa là. Tôi cần đến quyền phép của Ngài. (Minh hoạ: Có người sẽ gọi đấy là cái nạng. Nhưng cái nạng chỉ là thứ mà người què cần thôi! Tôi không ngượng khi nói rằng tôi cần Chúa Jêsus có khả năng nắm quyền chủ động trong đời sống của tôi).
B. Chúng ta đang sinh hoạt thế nào đây!?!(Minh hoạ: Phaolô đang phấn đấu và sắp đạt tới đích). Ông đang làm hết sức mình vì sự vinh hiển của Chúa! Khi chúng ta có cái nhìn vào chỗ mà chúng ta đang sinh sống hôm nay, chúng ta có thể kể mình là hạng người chuyên làm việc không? Là cá nhân năng động? Là một tập thể hội thánh? (Minh hoạ: Đêm đang đến – Giăng 9:4. Vì vậy, chúng ta cần phải dấn thân vào công việc của Chúa mà không có sự e dè chi hết. Hỡi người nam người nữ, chúng ta cần phải đánh giá lòng trung thành, sự sốt sắng, mong ước và động lực của chúng ta. Chúng ta cần phải nhìn thấy rằng chúng ta đang làm việc cho Chúa. Rốt lại, sự làm việc của chúng ta chỉ ra cấp độ đức tin của chúng ta – Giacơ 2:18).
C. Chúng ta đang yêu thương như thế nào đây!?! – Khi chúng ta nhìn vào chỗ chúng ta đang sinh sống theo cách chung và riêng, chúng ta cần phải xét xem chúng ta đang bày tỏ ra và phân phát tình yêu thương của Đức Chúa Trời như thế nào!?! Chúng ta cần phải phát triển và luôn luôn sử dụng loại yêu thương đúng đắn ấy.
1. Vì Đức Chúa Trời – Mathiơ 22:36-37
2. Vì đồng loại của chúng ta - Mathiơ 22:38-39; Giăng 13:35 (Minh hoạ: I Côrinhtô 13:1-8).
D. Khi bạn nhìn vào chỗ bạn đang sinh sống trước mặt Chúa tối nay, bạn sẽ mô tả đời sống Cơ đốc của bạn như thế nào? Đời sống ấy có được đẹp lòng Chúa không? Có thiếu điều chi không? Có tội lỗi, hay những thứ khác cần phải được xử lý không? Bạn thành thực tóm tắt đời sống của mình như thế nào vậy? Còn về hội thánh của bạn thì sao? Bạn cảm nhận thể nào khi chúng ta đang sinh hoạt như một nhóm tín đồ của Tân Ước? Có phải Chúa đẹp lòng hay buồn rầu khi Ngài nhìn vào hội thánh nầy? Tôi không biết câu trả lời cho hết thảy các thắc mắc nầy, nhưng tôi biết rằng nếu có nan đề dù ở cấp độ nào, Đức Chúa Trời hiến cho chúng ta một phương thức để sửa cho chúng ngay lại hôm nay. Bổn phận của chúng ta là mở ra cánh cửa ân điển mà Ngài đã ban cho chúng ta.
III. NHÌN VÀO GIẢI THƯỞNG (câu 14)
A. Chúng ta là những kẻ dự phần vào ơn kêu gọi ở trên trời – Chúng ta được kêu gọi:
1. Từ tội lỗi đến sự cứu rỗi – I Phierơ 2:9; Êphêsô 2:1-4!
2. Từ chết qua sống – Giăng 5:24!
3. Từ kẻ xa lạ được đem vào trong gia đình của Đức Chúa Trời – I Giăng 3:1-3!
4. Từ những kẻ lang thang trở thành chứng nhân – Mác 16:15; Mathiơ 28:19; Giăng 20:21.
B. Chúng ta là những kẻ dự phần vào ơn kêu gọi thánh – Chúng ta được kêu gọi phải phân rẻ ra khỏi thế gian– II Côrinhtô 6:17; II Têsalônica 3:6; I Timôthê 5:22. Minh hoạ: Là con cái của Đức Chúa Trời được lại sanh, chúng ta phải làm hết sức mình để sống cho Chúa và đem lại sự vinh hiển cho danh của Ngài bằng cách tự biệt mình riêng ra khỏi thế gian và sự ô uế của nó. Mong muốn của Đức Chúa Trời, ấy là chúng ta tấn tới trong sự nên thánh cho tới chừng chúng ta ra giống như Ngài – I Phierơ 1:16.
C. Chúng ta là kẻ dự phần ơn kêu gọi trên trời – (Minh hoạ: Cuộc sống nầy là một cuộc chạy đua, Hêbơrơ 12:1-2. Đôi khi chúng ta ở đàng đầu và có khi, chúng ta thầy mình bị bỏ lại ở đàng sau. Thường thì cuộc đời nầy trở thành một sự phấn đấu. Tuy nhiên, một ngày kia, mọi sự sẽ bị bỏ lại ở đàng sau chúng ta và chúng ta sẽ về quê hương mà ở với Chúa!) Hãy bám lấy đường chạy, hỡi quí tín hữu, đừng nhìn lại sau vào quá khứ, thay vì thế, hãy nhìn thẳng đàng trước bươn tới tương lai. Tương lai ấy sáng sủa và không hề kết thúc! Một ngày kia, chúng ta sẽ ở trong quê hương Thiên thượng đó. Hy vọng, ước mơ và mong muốn sẽ qua đi hết và chúng ta sẽ ở đời đời với Chúa! (Giăng 14:1-3).
Phần kết luận: Khi chúng ta xem xét các lẽ thật nầy hôm nay, bạn thấy mình đang ở đâu vậy?
1. Bạn đã được cứu chưa?
2. Bạn có sống cho Chúa, như bạn phải sống chưa?
3. Có phải bạn đang sống cho tương lai, hay có phải bạn còn vấn vương đâu đó trong quá khứ?
4. Có phải bạn đang bươn tới đích rồi đoạt lấy phần thưởng chăng?
5. Còn hội thánh thì sao? Có phải chúng ta đang ở trên đường chạy không? Có chắc không? Có phải chúng ta đang làm công việc Chúa thật hiệu quả và đúng theo ý chỉ Ngài chăng?
            Khi chúng ta tưởng niệm việc về đến quê hương hôm nay, tôi muốn nhắc cho bạn nhớ rằng Đức Chúa Trời đã chúc phước cho chúng ta với một hội thánh thật là lớn, có phải không? Tôi cũng muốn nhắc cho bạn nhớ rằng Ngài có nhiều chương trình lớn lao cho chúng ta ở đây, có phải không? Hôm nay, tôi kêu gọi từng cá nhân ở đây và từng thuộc viên trong gia đình hội thánh phải nắm lấy mấy cái nhìn nầy cho thật kỹ càng rồi thấy rõ chỗ chúng ta đang sinh sống và chỗ mà chúng ta đang hướng tới. Nguyện mọi việc đều là tốt lành và chúng sẽ ngày càng tốt đẹp hơn!



Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

Thi thiên 103: "PHƯỚC HẠNH THIÊNG LIÊNG TRỌN GÓI"


Phước Hạnh Thiêng Liêng Trọn Gói

— Nghiên cứu Thi thiên 103

            Sách Thi thiên là một mảng văn chương thực sự rất hùng vĩ của Kinh thánh. Đây là một tuyển tập 150 bài ca được cảm thúc bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Một số bài nầy kỷ niệm lịch sử của dân Do thái. Những bài khác công bố sự phán xét nghiệt ngã giáng trên những ai tự đặt mình vào hàng ngũ kẻ thù của Đức GIÊHÔVA. Có những Thi thiên nhắm thẳng vào Đấng Mêsi, nghĩa là, chúng chỉ thẳng vào Đấng Mêsi hầu đến. Mặc dù vậy, một số Thi thiên chỉ dấy lên giai điệu ngợi khen đối với Đấng Tạo Hoá.
            Thi thiên 103 có lẽ là “Núi Everest” trong các Thi thiên ngợi khen. Thi thiên nầy đưa linh hồn lên đến những tầm cao thật ngoạn mục.
            Dù gì đi nữa thì đây là Thi thiên của Vua David. Chẳng có lý do gì để thắc mắc về quyền tác giả của David đối với Thi thiên nầy. Hơn nữa, giai điệu của Thi thiên cho thấy nó đã được viết ra vào những năm sau cùng cuộc đời của nhà vua xuất thân từ một gã chăn chiên — có lẽ sau khi ông đã trải qua một cơn khủng hoảng lớn lao mà ông đã được giải cứu ra khỏi đó. Trong bài viết ngắn gọn nầy, chúng ta sẽ xem xét chỉ 5 câu đầu của kiệt tác nầy mà thôi.

Bùng Nổ Sự Khen Ngợi

            Tác giả Thi thiên bắt đầu với lời khen ngợi mang dấu chấm than xuất phát từ chỗ sâu thẳm linh hồn tin kính của ông. Hỡi linh hồn ta, khá ngợi khen Đức Giê-hô-va! Mọi điều gì ở trong ta hãy ca tụng danh thánh của Ngài! (câu 1). Một bản dịch mới thì ghi như sau: “Hỡi linh hồn ta, hãy ngợi khen Đức GIÊHÔVA, và mọi sự nơi ta, hãy ca ngợi danh Thánh của Ngài” (Beck). Lối phát biểu phản ảnh một sự bùng nổ lòng tin kính sốt sắng trong việc tôn vinh Chúa (Đức GIÊHÔVA) — Đấng Tự Hữu đã bước vào mối quan hệ giao ước với Israel.
            Ca tụng “danh thánh” của Đức Chúa Trời là ngợi khen Chúa vì sự thánh khiết nội tại của Ngài (đối chiếu Êsai 6:3; Khải huyền 4:8). Ngài là Đấng thánh sạch trọn vẹn, nơi Ngài chẳng có chút tội lỗi nào (Habacúc 1:13; Giacơ 1:13).
            Tác giả đang trải hồn mình ra — mọi điều gì “ở trong” ông — để bày tỏ hết những cảm xúc của mình. Ông kính mến Đấng Tạo Hoá với hết trí tuệ, tình cảm, và thực tế. Có một số tương đồng trong tình cảm với sự khích lệ phải kính mến Đức Chúa Trời với toàn bộ linh hồn của một người — tâm, hồn, ý, và sức (đối chiếu Phục truyền luật lệ ký 6:5; Mathiơ 22:37; Mác 12:29-30).
            Quí vị có bai giờ nếm trải một đám mây tối tăm trong cuộc sống mà ở đó tấm lòng của quí vị bị đau thương vầy lấy chưa? Sau cùng, khi qua đến bờ “bên kia”, quí vị thấy mình bị phủ lút với sự cảm tạ và vui mừng đến nỗi quí vị phải bật khóc vì thiếu khả năng cảm tạ xứng đáng đối với Đấng Nâng Đỡ mình? Hiển nhiên, đấy là cảm xúc của vị vua vĩ đại đúng với trường hợp nầy.

Đức Chúa Trời Của Mọi Phước Hạnh

            Con người là loài thọ tạo hay quên lắm, và Kinh thánh thì đầy dẫy với những lời nhắc nhở phải “nhớ” hay, nói ngược lại: “chớ quên”. Một số việc đáng phải quên (đối chiếu Philíp 3:13); tuy nhiên, một người nên giữ lý trí sao cho khoẻ khoắn, luôn nghĩ tới sự thực nầy: sự tử tế của Đức Chúa Trời. Và vì thế, David lưu ý rằng chúng ta đừng nên “quên mọi ân huệ của Ngài” (câu 2). Ở một chỗ khác, tác giả được cảm thúc phải suy gẫm: Tôi sẽ lấy gì báo đáp Đức Giê-hô-va về các ơn lành mà Ngài đã làm cho tôi? (Thi thiên 116:12).
            Trong thế giới của chúng ta ngày nay, nhiều người ý thức sâu sắc về các “ân huệ” đó có quan hệ với công ăn việc làm của họ. Tôi có loại bảo hiểm nào chứ? Gói hưu trí của tôi như thế nào, v.v…? Mặc dù vậy, chúng ta thường xuyên suy gẫm đến các “ân huệ” của Cha yêu thương của chúng ta như thế nào?
            Trong Thi thiên 103:3-5, năm “ân huệ” lạ lùng đã được liệt kê ra. Làm thế nào để thêm lực cho linh hồn hầu thưởng thức các ân huệ nầy. Chúng được tỏ ra với các động từ sau đây: tha thứ, chữa lành, cứu chuộc, mão triều đội cho, và thoả lòng. Chúng ta hãy suy gẫm về các lời hứa nầy.

Tha thứ

            Đức Chúa Trời “tha thứ các tội ác ngươi” Tác giả Thi thiên công bố như thế. Có hai điểm chúng ta có thể tập trung vào đó. Điểm thứ nhứt là từ ngữ “các”. Tiếp đến, chúng ta phải luận về bản chất của sự tha thứ.
            Thứ nhứt, David đề cao sự thực rằng Đức Chúa Trời sẽ tha thứ “các” tội ác (câu 3a) — một thứ tình cảm cũng vang dội trong Tân Ước nữa đấy. Chúa có quyền thanh tẩy hết “mọi điều gian ác” (I Giăng 1:9). Nhưng điều nầy hài hoà thế nào với các phân đoạn cho thấy một số tội lỗi không thể tha thứ được? Chúa Jêsus phán về tội nghịch với Đức Thánh Linh, Ngài phán, là điều: “sẽ chẳng được tha” (Mathiơ 12:32). Tác giả thơ Hêbơrơ mô tả “cố ý phạm tội”, Ngài tuyên bố điều đó thì không còn có “tế lễ chuộc tội” nữa (Hêbơrơ 10:26). Còn Giăng viết về tình trạng vô ích khi cầu xin cho anh em nào đó phạm “tội đến nỗi chết” (I Giăng 5:16).
            Dù đây chẳng phải là chỗ thực hiện một nghiên cứu về các phân đoạn Kinh thánh dễ đưa đến sự tranh cãi, chúng ta có thể quan sát. Kinh thánh không tự mâu thuẫn với chính mình đâu. Vì vậy, có một sự hài hoà được tìm thấy giữa sự khẳng định rằng Đức GIÊHÔVA tha thứ “các” tội ác, và giới hạn ngụ ý trong các câu Kinh thánh mà chúng ta đã nhắc tới. Chìa khoá cho việc mở ra sự kín nhiệm là đây: một sự xem xét cẩn thận ba câu gốc được kể ra ở trên tỏ ra rằng mỗi câu phải thực hiện với sự tha thứ bị cầm lại kết quả nơi sự lựa chọn của con người. Họ từ chối không nhận ơn tha thứ! Ân huệ của thiên đàng không nằm trong chỗ thắc mắc.
            Vì thế, phải rõ ràng nhận biết “các” tội ác, cả từ mặt số lượng và chất lượng, có thể khắc phục được — đối với những ai bị đè bẹp dưới sức ép của nó (Mathiơ 11:28-30), và người nào chọn tìm kiếm sự ban hiến khuây khoả của Thiên đàng (Khải huyền 22:17). Điều nầy đưa chúng ta đến điểm kế tiếp.
            Không nên cho rằng vì Đức Chúa Trời bằng lòng tha thứ “các” tội lỗi, thì ơn cứu chuộc được xem là vô điều kiện đâu. Sự “chọn lựa vô điều kiện” nơi nền tảng giáo lý của phái Calvin không tìm được sự ủng hộ trong Kinh thánh. Đức Chúa Trời Toàn Năng, qua Đấng Christ, sẽ tha thứ mọi tội lỗi trong quá khứ, vì cớ người nào phục theo ý muốn của Con Ngài trong sự vâng phục (Rôma 6:17; Hêbơrơ 5:8-9). Tha thứ không chiếu theo những giới hạn của chương trình cứu chuộc thiêng liêng (Công Vụ các Sứ Đồ 2:38; 22:16).

Chữa lành

            David khẳng định rằng Đức Chúa Trời “chữa lành mọi bịnh tật [ngươi]” (câu 3b). Để hiểu rõ chính xác phước hạnh được hứa ở đây, có mấy việc cần phải được lưu ý đến. Thứ nhứt, phân đoạn Kinh thánh không cho rằng con cái của Đức Chúa Trời sẽ mong được chữa lành vĩnh viễn từng thứ tật bịnh, để cho người sẽ không bao giờ chết. Sự chết theo phần xác là một án phạt kết quả từ sự dính dáng của con người đối với tội lỗi (Sáng thế ký 2:17; Rôma 5:12); đây là một ấn định về mặt thiêng liêng (Hêbơrơ 9:27).
            Thứ hai, phân đoạn Kinh thánh không phải là một lời hứa mà Cơ đốc nhân, xuyên suốt cả lịch sử, sẽ có khả năng khai thác quyền phép chữa lành thiêng liêng theo kiểu phép lạ được, như đã có trong kỷ nguyên chức vụ cá nhân của Chúa Jêsus, và trong thời kỳ các sứ đồ. Hiện tượng siêu nhiên trong thời buổi ấy chỉ là tạm thời mà thôi (I Côrinhtô 13:8…). Muốn nghiên cứu sâu hơn về lẽ đạo nầy, hãy xem “Archives”, “Miracles”, (October 18, 1998).
            Vấn đề mà phân đoạn Kinh thánh nầy muốn đưa ra là đây: Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên thân thể của con người (Sáng thế ký 2:7; Thi thiên 139:14), Ngài có quyền, phù hợp với chính ý định của Ngài, để đắp vá tạo vật của chính Ngài. Không một ai trong chúng ta sẽ sống thời kỳ non trẻ nếu không có quá trình chữa lành lạ lùng được thiết kế theo cách thiêng liêng và được lồng vào hệ thống khuôn khổ của con người. Hệ thống miễn dịch, hiện tượng kháng thể, quá trình đắp vá, v.v…, hết thảy đều vượt quá khả năng suy hiểu của chúng ta. Chúng ta đã bàn bạc vấn đề nầy từng chi tiết trong quyển The Human BodyAccident or Design?
            Tuy nhiên, ngoài vấn đề nầy, còn có lời hứa tối hậu cho tình trạng được vinh hiển của chúng ta. Cần phải lưu ý rằng “bịnh tật” trong phân đoạn nầy không nhất thiết được xác định là bịnh tật theo phần thể xác đâu, mà “có thể bao gồm mọi đau khổ” (A.F. Kirkpatrick, The Psalms, Cambridge: University Press, 1906, p. 601). Một số học giả nghĩ rằng “bịnh tật” chỉ là ẩn dụ nói tới “nghịch cảnh hay thất bại” của cuộc sống mà thôi (W.A. Van Gemeren, “Psalms,” NIV Bible Commentary, Barker & Kohlenberger, Eds., 1994, I, p. 898).
            Sau khi thân thể được gửi trở lại vào lòng đất, trở lại với nguyên thủy bụi đất của mình (Sáng thế ký 3:19; Truyền đạo 12:7), nó chờ đợi ngày phục sinh của mình (Giăng 5:28-29; Công Vụ các Sứ Đồ 24:15; I Côrinhtô 15). Khi thân thể ấy ra khỏi mồ mả, nó sẽ bước vào một thể trạng mới mà ở đó đau khổ và sự chết “không còn có” nữa (Khải huyền 21:4), và nơi đó “lá” của “cây sự sống” cung ứng “sự chữa lành”, nghĩa là, sự hội hiệp đời đời với Đức Chúa Trời (Khải huyền 22:2; đối chiếu Sáng thế ký 3:22).

Sự cứu chuộc

            Nhà thơ công bố rằng Đức GIÊHÔVA cứu chuộc mạng sống ngươi khỏi chốn hư nát (câu 4a). Cụm từ “chốn hư nát” (xem bảng ASV “hố sâu”) là một tham khảo nói tới sự chết. Có lẽ David đã ở bên lề cánh cửa sự chết và Chúa đã giải cứu ông. Chắc chắn là có một số phân đoạn ghi lại bản chất ấy trong phần tiểu sử của ông. Theo ánh sáng sự khải thị của Tân Ước, phân đoạn nầy có nhiều ứng dụng quan trọng hơn cho chúng ta.
            Động từ “cứu chuộc” có liên quan đến danh từ Hybálai goel, sát nghĩa “người bà con có quyền chuộc”. Quan niệm ấy sẽ được ứng nghiệm hoàn toàn nơi Đấng Christ, “người bà con” của chúng ta (đối chiếu Giăng 1:14; Hêbơrơ 2:11…), Ngài đã trả giá của sự chuộc tội bằng cách đổ huyết Ngài ra (Luca 1:68; Êphêsô 1:7). Có hai ý nghĩa trong đó chúng ta, là con cái của Đức Chúa Trời, dự phần vào phước hạnh của sự chuộc tội.
            Thứ nhứt, chúng ta được chuộc ra khỏi những sự quá phạm. Như đã được lưu ý trên đây, điều nầy Chúa Jêsus đã đạt được trong vai trò của lễ trọn vẹn dành cho tội lỗi. Là Chiên Con (Giăng 1:29; I Côrinhtô 5:7) không lỗi không vít (I Phierơ 1:18-19), Đấng Christ, bởi sự chết của Ngài, đã làm thoả mãn sự công bình của Đức Chúa Trời (Êsai 53:11; Rôma 3:24-26), nhơn đó trở thành Đấng Cứu Chuộc có hiệu lực (xem Gióp 19:25). Tất nhiên, chúng ta tiếp cận với phước hạnh nầy, khi chúng ta phục theo những giới hạn của chương trình thiêng liêng về sự tha tội (Mathiơ 28:19-20; Mác 16:15-16; Công Vụ các Sứ Đồ 2:38; 22:16; Rôma 6:3-4; Galati 3:26-27, v.v...).
            Nhưng có một phương thức khác trong đó chúng ta được cứu chuộc. Trong thư tín ông viết cho các Cơ đốc nhân tại thành Rome, Phaolô đã khẳng định rằng không những muôn vật thôi, lại chúng ta, là kẻ có trái đầu mùa của Đức Thánh Linh, cũng than thở trong lòng, đang khi trông đợi sự làm con nuôi, tức là sự cứu chuộc thân thể chúng ta vậy (Rôma 8:23). Tất nhiên, đây là một hình ảnh nói tới sự sống lại của thân thể con người, trong một hình thức bất tử, vào thời điểm Đấng Christ tái lâm (I Côrinhtô 15; đối chiếu I Têsalônica 4:13…).
            Thật là quan trọng khi Cơ đốc giáo đứng ngoài mọi triết lý ngoại giáo xem thường hình thái của con người đến nỗi họ tưởng hạnh phúc cõi đời đời chỉ ở những giới hạn của tâm linh mà thôi. Những ý tưởng thể ấy thỉnh thoảng đã xâm nhập vào hội thánh đầu tiên (xem I Côrinhtô 15:12), như đã có trong hội thánh hiện đại. (Tín điều nói tới “sự mạt thế” chối bỏ sự phục sinh của thân thể trong tương lai). Đây là một quan niệm “tân thời” về thân thể được chuộc kinh nghiệm sự sống lại; thật vậy, thân thể ấy sẽ “phù hợp” với thân thể của sự vinh hiển do sự thực thi quyền phép lạ lùng của Đấng Cứu Thế (Philíp 3:20-21).

Mão triều đội cho

            Các ơn phước đã được mô tả giống như “mão triều” vinh hiển đem đội cho. Cụm từ nầy trở thành hình bóng nói tới các phẩm hạnh của bổn tánh Đức Chúa Trời (thí dụ, “sự nhơn từ” Ngài) và phần mở rộng của ơn phước ấy cho con người tội lỗi bởi “sự nhân từ và thương xót” của Ngài, một cụm từ gợi ý về bản chất thương hại mà kẻ khốn khó đang có cần.
            Lòng thương xót tử tế của Đấng Dựng Nên của chúng ta đã được tỏ ra bằng nhiều cách.

1.   Sự tử tế của Đức GIÊHÔVA đã được tỏ ra bằng những dấu kỳ phép lạ chỉ cho chúng ta thấy trong cấu trúc tuyệt vời của vũ trụ đã được dựng nên (Thi thiên 19:1…; Rôma 1:20).
2.   Chúa đã chứng minh sự tử tế thương xót của Ngài trong các hoạt động khôn ngoan mà Ngài đã tỏ giữa vòng chúng ta (Công Vụ các Sứ Đồ 17:25).
3.   Đức Chúa Trời đã tỏ ra sự tử tế của Ngài trong việc sai phái Đấng Cứu Thế đến (Tít 3:4…).
            Muốn nghiên cứu sâu hơn về lẽ đạo nầy, hãy xem “Reflections On The Goodness of God”.
            Việc Đức Chúa Trời đội cho mão triều thiên sẽ tìm gặp sự ứng nghiệm nơi sự vinh hiển của lãnh vực mà Ngài đã sửa soạn cho kẻ vâng lời (Giăng 14:1…). Trong thời buổi ấy, sẽ có “mão triều thiên của sự công bình” được dành cho (II Timôthê 4:8), cũng là “mão triều thiên của sự sống” (Giacơ 1:12; Khải huyền 2:10), và “mão triều thiên vinh hiển” (I Phierơ 5:4). Đây sẽ là phần tỏ ra tối hậu về lòng tử tế và thương xót của Giêhôva Đức Chúa Trời. Cơ đốc nhân phải cẩn thận giữ lấy sự trông mong nầy, vì mất mão triều thiên là một việc khả thi (Khải huyền 3:11).
            Có phải lời hứa nầy làm cho quí vị cảm thấy mình không phải là một vì vua? (đối chiếu Khải huyền 3:21).

Thoả

            Sau cùng, David tuyên bố rằng Đức GIÊHÔVA làm cho chúng ta được “thoả các vật ngon” (câu 5a). Mệnh đề nầy rất khó nắm bắt vì ý nghĩa gắn bó với từ ngữ “ao ước” (bản Kinh thánh ASV). Tính đa dạng trong các quan điểm được phản ảnh trong nhiều bản dịch khác nhau. Albert Barnes cho rằng ông không có ý kiến gì đối với ý nghĩa của phân đoạn Kinh thánh nầy.
            Theo phân đoạn Cựu Ước tiếng Hybálai, động từ là edyek. Từ ngữ sát nghĩa là “vật trang trí”, nhưng được dịch là “ước muốn” trong bản Kinh thánh ASV (chuyển từ bản 70). Dự theo một số giả thuyết về gốc rễ của từ ngữ, một số học giả tu chỉnh hình thức odeka (xem Derek Kidner, Thi thiên 73-150, Downers Grove, IL: InterVarsity, 1975, p. 365). Điều nầy chiếu theo ý nghĩa của “các năm” hay “phần đầu của năm, mùa xuân” (bản dịch ASV; NASB) hay “quí vị đang sống thọ” (RSV). Bản dịch NEB nói tới từ nầy là “sống lâu” đang khi “tuổi thọ” là hình thức nó có trong bản Masoretic Text từ Jewish Publication Society. William Beck xem từ nầy là: “thọ như tôi đang sống”. Bản Targum Hêbơrơ chuyển dịch từ ngữ có ý nói “những ngày của tuổi thọ” (Kirkpatrick, p. 601). Hầu hết các học giả đều tin rằng bản dịch KJV: “miệng” là không chính xác.
            Nếu quan điểm thịnh hành — quan điểm nói tới tuổi trưởng thành — là chính xác, thì ý nghĩa của phần thứ nhất của câu 5a sẽ được chép như vầy đây: “Ngay cả ở tuổi cao, các ngươi sẽ được thoả lòng, vì cớ những việc tốt lành mà Đức Chúa Trời đã tiếp trợ cho các ngươi”.
            Phần thứ hai của câu 5 ủng hộ quan điểm nầy. Nó nói tới “tuổi thanh xuân” của một người được làm mới lại, giống như chim ưng. Chim ưng là loài chim tận hưởng thứ tuổi thọ mạnh mẽ rất khác thường. Trung bình, loài chim lớn nầy sống từ 20, hay 30 đến 50 năm. G.S. Cansdale, trong công trình của ông: All The Animals of the Bible Lands (Grand Rapids: Zondervan, 1970, p. 143), liệt kê một trường hợp nói tới chim ưng bị giam cầm tại Vienna đã sống đến tuổi 104. Ý nghĩa của cụm từ sẽ là như vầy đây: “sức mạnh của ngươi sẽ là sức mạnh của tuổi thanh niên, thật vậy, ngươi sẽ tiếp tục cất cánh bay cao như chim ưng”.
            Nếu, chúng ta kết hợp các tư tưởng nầy lại, phân đoạn Kinh thánh có thể chỉ ra ý tưởng nầy. Người nào bước đi với Chúa, và người nào nhận lãnh các ơn phước của Ngài, mặc dù họ lớn tuổi, họ sẽ có một tinh thần vui thích, thưởng thức cuộc sống của họ và ngợi khen Đức Chúa Trời vì mọi ơn phước của Ngài. Ý tưởng sẽ tương tự với lời tuyên bố của Phaolô trong thư tín viết cho người thành Côrinhtô. Vậy nên chúng ta chẳng ngã lòng, dầu người bề ngoài hư nát, nhưng người bề trong cứ đổi mới càng ngày càng hơn (II Côrinhtô 4:16).
            Tình cảm của tác giả Thi thiên sẽ khích lệ chúng ta không sống giống như những “lão già (và mấy bà già) khó tính” khi chúng ta đến lúc ấy, dù thời điểm sống như thế nầy đầy dẫy với nhiều khó khăn. Thay vì thế, với sự vui mừng cả thể, chúng ta nên nhận biết rằng “thời tốt nhứt chưa đến”.
            Có một sự cách biệt — với chiều rộng của vũ trụ — giữa tâm tính rạng rỡ của David, và những gì phái phê bình tỏ ra. Người ta khó mà tìm được trường hợp tốt hơn triễn vọng ảm đạm nói tới tuổi già được chỉ ra trong bài thơ của Matthew Arnold (1822-88) có đề tựa là “Cao Tuổi”. Trong đó, Arnold, một kẻ phê phán cay đắng đối với Kinh thánh, đã thốt ra việc mất đi “hình thái vinh quang”“nét đẹp của mắt”. Ông mô tả sức lực suy giảm. Ông nói tới xương khớp “hết nhớt” và thần kinh bị sờn hết. Ông than phiền “ngục tù nóng bức” của tuổi già, với “nhức mỏi” hết tháng nầy sang tháng khác. Ông than rằng ông chỉ là một “bóng ma” của cái tôi mình trước kia — chỉ là “con ma má hóp”.
            Trong khi chú giải sách Thi thiên, John Phillips nhắc cho chúng ta nhớ đến trường hợp lạ lùng và đáng buồn của Howard Hughes. Vào thời điểm cái chết của ông, Hughes có tài sản khoảng 2 tỉ rưỡi đôla. Tuy nhiên, ông sống như một kẻ ẩn dật ở một khách sạn tại Las Vegas. Ông bị bỏ rơi, chẳng ai biết đến, với mái tóc bù xù, râu ria xồm xoàm, mấy cái móng tay thì dài thòn như vuốt động vật. Khi qua đời, ông cân nặng chỉ 90 cân Anh (xem: Exploring the Psalms, Neptune, NJ: Loizeaux, 1988, p. 126). Hai từ mô tả ông: “Most miserable” [Đáng Thương Nhất]. Đúng là một tương phản sống động với quan niệm rất cảm động và được xem trọng mà vị vua Isarel đã tỏ ra.
            Đúng là những lẽ thật phong phú nằm trong Thi thiên 103:1-5. Chắc chắn sự cân đối của bài ca sẽ xác chứng một sở thích thấm thía tương xứng. Tại sao không dành cho bài ca một sự xem xét khả thi?