ĐẤNG
CỨU THẾ XUẤT HIỆN
BỊ BẮT & BỊ ĐÓNG ĐINH TRÊN THẬP TỰ GIÁ
Chúng ta đã
bước theo cuộc thám hiểm ‘EPIC’ qua mọi phân đoạn của Kinh thánh. Đỉnh cao
của cuộc thám hiểm nầy là đời sống của Chúa Jêsus. Cao điểm của đời sống Chúa
Jêsus là lần thăm viếng sau cùng của Ngài tại thành Jerusalem . Thực vậy, các sách Tin Lành đã
dành một phần ba lời chứng của họ cho việc mô tả các biến cố đã diễn ra vào
ngày Chúa nhật lễ lá đó.
Những người
Do thái công bình vốn mong đợi đến được thành Jerusalem để thờ lạy mỗi năm ba lần. Và những
chuyến lữ hành “lên
thành Jerusalem ”
hàng năm như thế nầy có thể được xem là hình bóng cho cả cuộc đời
của Chúa. Sự ra đời, phép báptêm, sự cám dỗ, những sự chữa lành và sự rao giảng
của Chúa Jêsus, sự chú ý của kẻ thù và bạn hữu Ngài thiết lập một cuộc hành
trình — một cuộc hành trình kết thúc với sự Ngài đến trong thành thánh. Một lần
sau cùng Ngài đã bước vào thành Jerusalem ,
giờ đây với một mục đích duy nhứt — ‘Chiên Con của Đức Chúa Trời là Đấng cất tội lỗi thế gian
đi’.
Trong tuần
lễ sau cùng của cuộc đời Ngài, chúng ta thấy rằng mặc dù Chúa Jêsus luôn luôn ở
cùng với nhiều người khác, Ngài vẫn bị hiểu lầm và thật cô độc. Nắm lấy phần
chú thích tình trạng cô độc của Chúa Jêsus có thể khích lệ chúng ta hướng đến
Ngài để xin giúp đỡ khi chúng ta bị dứt bỏ trong tình trạng chẳng có ai hiểu rõ
hay quan tâm đến chúng ta.
Chúng ta
bắt lấy câu chuyện vào ngày Chúa nhật trước ngày lễ Vượt Qua.
Luca
19:36-42: “Khi Đức Chúa Jêsus đang đi tới, có nhiều kẻ trải áo trên
đường. Lúc đến gần dốc núi ô-li-ve, cả đám môn đồ lấy làm mừng rỡ, và cả tiếng
ngợi khen Đức Chúa Trời về những phép lạ mình đã thấy, mà nói rằng: Đáng ngợi
khen Vua nhân danh Chúa mà đến! Bình an ở trên trời, và vinh hiển trên các nơi
rất cao! Bấy giờ, có mấy người Pha-ri-si ở trong đám dân đông nói cùng Ngài
rằng: Thưa thầy, xin quở trách môn đồ thầy! Ngài đáp rằng: Ta phán cùng các
ngươi, nếu họ nín lặng thì đá sẽ kêu lên. Khi Đức Chúa Jêsus gần đến thành,
thấy thì khóc về thành, và phán rằng: Ước gì, ít nữa là ngày nay, mầy đã hiểu
biết sự làm cho mầy được bình an! Song hiện nay những sự ấy kín giấu nơi mắt
mầy”.
Bối cảnh
rất ồn ào và sinh động. Đám dân đông hô to lên lời ngợi khen. Một số người
Pharisi thốt ra sự chống đối. Ở giữa các biến cố, một mình Chúa Jêsus đang tan
vỡ, kêu la. Hai hàng nước mắt của Ngài không phải khóc vì chính mình Ngài đâu.
Dân tộc mà Ngài yêu thương và thành Jerusalem
yêu dấu với đền thờ nguy nga của nó đang ở trong chỗ hiểm nguy. Đám đông cổ vũ
kia không hiểu rõ bản chất của sự cứu rỗi mà Ngài đang hiến cho (thích chẳng nhìn thấy hơn) và kẻ thù
của Ngài đã quyết không những quở trách Ngài, mà còn muốn giết chết Ngài nữa.
Và vì thế Chúa Jêsus khóc.
Về sau,
chúng ta thấy Chúa ở Bêthany ngay phía ngoài thành Jerusalem đang ăn tối với các môn đồ Ngài tại
một ngôi nhà riêng. Một môn đồ của Ngài có tên là Mary đã xức dầu thơm đắt tiền
cho Ngài — một hành động vừa khó khăn về mặt xã hội và ngông cuồng về mặt tài
chính nữa. Khi nàng ta bị quở trách, Chúa Jêsus bảo hộ cho nàng ta rồi một lần nữa kêu gọi sự chú ý đến chuyến hành trình
đơn độc của chính Ngài. Sự xức dầu mà Ngài nhận lãnh là một sự chuẩn bị cho sự
chôn của Ngài.
Khi nhìn
vào tương lai ở một khoảng cách ngắn, Chúa Jêsus nhìn thấy một thi hài, chịu
chết bởi đóng đinh vào thập tự giá và xác quyết hành động yêu thương của Mary.
Sự Ngài nhắc nhở đến cái chết tạo ra sự cô lập đối với Chúa Jêsus. Không một ai
muốn nghe nói về sự hành quyết Ngài sắp xảy ra.
Hai ngày kế
đó, một lần nữa Chúa Jêsus nhóm lại với các môn đồ Ngài để dùng bữa tối — bữa
ăn Lễ Vượt Qua, bữa tiệc cuối cùng của Chúa Jêsus. Mặc dù 13 người có mặt, một
lần nữa chúng ta lại nhìn thấy Chúa Jêsus trong cảnh đơn độc, đang có một cuộc
trao đổi riêng với Giuđa (và ma quỉ đã
nhập vào hắn) — “những gì ngươi đang làm, hãy làm mau đi”. Chiếc
đồng hồ cát gần như là trống trơn, tuy nhiên các môn đồ khác tiếp tục bữa ăn mà
chẳng ý thức gì về những gì sắp xảy đến.
Sau bữa ăn
tối, họ rời phòng cao, ở đó họ đã ăn uống rồi băng qua trũng đến với Núi Ôlive.
Khi họ đã đi rồi, Chúa Jêsus bảo các môn đồ rằng hết thảy họ sẽ bỏ chạy trong
sự sợ hãi (“đánh kẻ chăn thì bầy chiên sẽ
tan tác”). Phierơ được nhắc nhớ về những lời xưng nhận kiêu căng kia và
những lần chối bỏ lặp đi lặp lại của ông, nhưng hầu hết các môn đồ đều bỏ chạy
tránh nguy hiểm và bỏ Chúa Jêsus lại để chính mình Ngài đối diện với sự hành
hình. Trên Núi Ôlive là một ngôi vườn, Chúa Jêsus đã bước vào để cầu nguyện,
một lần nữa cùng với các bạn hữu của Ngài, một lần nữa trong sự cô độc.
Mác
14:32-36: “Kế đó, đi đến một nơi kia, gọi là Ghết-sê-ma-nê, Đức Chúa
Jêsus phán cùng môn đồ rằng: Các ngươi hãy ngồi đây, đợi ta cầu nguyện. Ngài
bèn đem Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng đi, thì Ngài khởi sự kinh hãi và sầu não.
Ngài phán cùng ba người rằng: Linh-hồn ta buồn rầu lắm cho đến chết; các ngươi
hãy ở đây, và tỉnh thức. Rồi Ngài đi một đỗi xa hơn, sấp mình xuống đất mà cầu
nguyện rằng: nếu có thể được, xin giờ nầy qua khỏi mình. Ngài rằng: A-ba lạy
Cha, mọi việc Cha làm được cả; xin Cha cất chén nầy khỏi con; nhưng không theo
điều con muốn, mà theo điều Cha muốn”.
Chúa Jêsus
đã trở nên người gánh lấy tội lỗi và lần đầu tiên trong cuộc đời của Ngài một
lời thỉnh cầu được trình ra với Cha Ngài trong sự cầu nguyện đã bị khước từ.
Các môn đồ một lần nữa đã làm cho Ngài phải chùng xuống, họ sa vào giấc ngủ
thay vì ở đó thức canh. Và những lời cầu nguyện của Ngài đã mở ra khoảng cách
ngày càng tăng của Ngài đối với Đức Chúa Trời — giờ đây những khao khát của
Ngài đã đi ngược lại với ý chỉ của Đức Chúa Cha.
Rồi khi ban
đêm trầm hẳn xuống, bóng tối tăm càng đậm nét hơn. Chúa Jêsus bị bắt và chịu
bốn lần thẩm vấn bởi các nhân vật cầm quyền — Anne, Caiphe, Hêrốt, và Philát.
Ngài bị quất bằng roi bởi lính canh đền thờ của người Do thái và kế đó bị mấy
tên lính Lamã quất bằng roi da.
Mathiơ
27:27-31: “Lính của quan tổng đốc bèn đem Đức Chúa Jêsus vào công
đường, và nhóm cả cơ binh vây lấy Ngài. Họ cổi áo Ngài ra, lấy áo điều mà khoác
cho Ngài. Đoạn, họ đương một cái mão gai mà đội trên đầu, và để một cây sậy
trong tay hữu Ngài; rồi quì xuống trước mặt Ngài mà nhạo báng rằng: Lạy Vua của
dân Giu-đa. Họ nhổ trên Ngài, và lấy cây sậy đánh đầu Ngài. Khi đã nhạo báng
Ngài rồi, thì họ cổi áo điều ra mà mặc áo của Ngài lại, rồi đem Ngài đi đóng
đinh trên cây thập tự”.
Một lần
nữa, tình trạng cô độc của Đấng Cứu Thế quả là hết mức. Mặc dù Ngài cầu thay
xin tha thứ cho những kẻ đánh đập Ngài, không một ai thốt ra một từ nào tỏ ra
quan tâm hay yên ủi dành cho Ngài. Và bóng tối tăm vẫn đang trên đà tăm tối
hơn.
Mathiơ
27:45-46: “Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù
mịt. Ước chừng giờ thứ chín, Đức Chúa Jêsus kêu tiếng lớn lên rằng: Ê-li, Ê-li,
lam-ma sa-bách-ta-ni? nghĩa là: Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! sao
Ngài lìa bỏ tôi?”
Chúa Jêsus
đã ở trong tình trạng cô độc vào Chúa nhật lễ lá. Ngài bị cô lập khi Ngài còn ở
với các bạn hữu Ngài, lời cầu xin của Ngài bị từ khước khi Ngài cầu nguyện ở
trong vườn, và bị kẻ thù Ngài đánh đập. Nhưng đây là điều tệ hại nhất cả thảy: ‘Đức Chúa Trời
tôi ơi, Cha yêu dấu ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi?’ Những gì chúng ta không
thể nghe thấy là sự nát lòng của Cha trên trời đang dứt bỏ Con yêu dấu của
Ngài. Chúa Jêsus đã trở nên “tội lỗi vì chúng
ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa
Trời” (II Côrinhtô 5:21).
Bị hoán đổi từ người vô tội thành kẻ gánh lấy tội lỗi, Đức Chúa Con bị phân
cách đối với Đức Chúa Cha. Biến cố đơn độc nầy sẽ cất lấy hơi thở ra khỏi chúng
ta, làm cho sợ hãi và khiến chúng ta phải kinh ngạc.
Một dòng từ
bài thánh ca của Charles Wesley có đề tựa là And Can It Be, thoạt đến với tâm
trí: “Đây là lẽ mầu nhiệm: Đấng bất tử đang gục chết . . . Đây là
ơn thương xót! Nguyện cả đất phải thờ lạy, thiên sứ thôi không còn nói nữa. . .
. Tình yêu diệu kỳ! Sao lại như thế được, hỡi Đức Chúa Trời tôi, lẽ nào Ngài
phải chết vì tôi?”
Chúng ta
kết luận bài học nầy với một phân đoạn từ sách Hêbơrơ, ở đây tình trạng cô độc
và sự thương khó của Chúa Jêsus được xem là nguồn phước hạnh cho chúng ta khi
chúng ta đang ở trong chỗ có cần nghiêm trọng nhất.
Hêbơrơ
2:18, 4:15-16: “Vả, vì chính mình Ngài chịu khổ trong khi bị cám dỗ, nên có
thể cứu những kẻ bị cám dỗ vậy … Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm
chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử
thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội. Vậy, chúng ta hãy
vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp
chúng ta trong thì giờ có cần dùng”
Sự thánh
khiết của Đức Chúa Trời có thể răn đe chúng ta. Tội lỗi chúng ta chẳng có một
chỗ nào trong sự hiện diện của Ngài. Cái điều đáng sợ khả thi hơn hết, ấy là
mối quan hệ quan trọng một thời có thể kết thúc, Đức Chúa Trời không còn nghe
thấy một tiếng kêu xin cứu giúp nào nữa, rằng Ngài đã quên chúng ta.
Vấn đề quan
trọng cần phải nhớ, ấy là Chúa Jêsus đến trợ giúp chúng ta trong vai trò Thầy
Tế Lễ Thượng Phẩm thành tín; rằng Ngài đã từng trải mọi nổi buồn rầu và đau khổ
của tội lỗi ở một khoảng cách đối với một Đức Chúa Trời thánh khiết. Ngài đã bị
tàn phá bởi sự thử thách và bị hạ thấp bởi tình trạng yếu đuối của thân thể và
tâm linh. Đau khổ và sự chối bỏ trong hiện tại, sợ hãi về tương lai, vật vã
trong sự cầu nguyện, in lặng từ trời — mọi điều nầy Cứu Chúa chúng ta đã từng
kinh nghiệm.
Vậy, chúng
ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn
để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét