Sự Sáng Của Thế Gian
Bóng đêm buông xuống lúc giữa trưa khi Chúa Jêsus chịu
thương khó trên thập tự giá và chính trong bóng tối khủng khiếp đó Ngài kêu
lên: "Đức Chúa Trời tôi ôi, Đức Chúa Trời tôi ôi, sao
Ngài lìa bỏ tôi?" Về ngày này Isaac Watts đã viết: "Mặt trời ẩn
đi trong bóng tối, và sự vinh hiển của nó khép lại, khi Đấng Christ, là Đấng Tạo
Hoá Toàn Năng, đã chịu chết thay cho con người là tạo vật tội lỗi".
Chúng ta bắt gặp sáng và tối trong những câu đầu tiên
của Kinh Thánh, và chúng được sử dụng suốt như một phép ẩn dụ để đối chiếu giữa
tốt và xấu. Sự chết của Chúa Jêsus – Cứu Chúa vô tội, bị bạn bè bỏ rơi, và bị
Cha Ngài xây mặt đi – dường như báo hiệu sự đắc thắng của bóng tối. Nhưng chỉn
đến buổi sáng Phục Sinh.
Sách Tin lành Giăng đã cung ứng cho chúng ta những
phân đoạn cho loạt bài nầy – Portraits John Painted
[Các Chân Dung Giăng Tô Vẽ] – và chính Giăng là người thường nói đến
Chúa Jêsus khi sử dụng lối nói về sáng và tối. "Trong Ngài có sự sống, sự sống là sự sáng của
loài người. Sự sáng soi trong tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng" (Giăng
1:4-5). Câu chuyện/chân dung trong sứ điệp nầy xuất phát từ chương thứ chín
sách Tin lành Giăng. Chúa Jêsus, sự sáng của thế gian, gặp gỡ cả hai: một người
bị mù bẩm sinh và những kẻ chọn mù lòa về mặt thuộc linh.
Giăng 9:1-2:
“Đức Chúa Jêsus vừa đi qua, thấy một người mù từ thuở sanh ra.
Môn đồ hỏi Ngài rằng: Thưa thầy ai đã phạm tội, người hay là cha mẹ người, mà
người sanh ra thì mù như vậy?”
Những biến cố nầy xảy ra tại thành Jerusalem. Khi thấy
Chúa Jêsus để ý đến một gã ăn mày mù loà, các môn đồ phải đối mặt với một tình
thế khó xử về mặt lý trí. Chúng ta đọc thấy rằng Chúa Jêsus "thấy một người". Tuy nhiên, các
môn đồ nhìn người ấy rồi lấy làm lạ về bản chất của tội lỗi và đau khổ. Họ nói
nhẫn tâm lắm về tình trạng của người nầy và nguyên nhân của nó, giống như thể người
sống ở trước mặt họ bị điếc vậy. Tại sao họ lại đưa ra câu hỏi này?
Chúng ta nên nhớ rằng các môn đồ trước đây đã nhìn thấy
Chúa Jêsus chữa lành tình trạng mù loà. Họ cũng đã có mặt ở nhà hội trong thành
Naxarét khi Chúa Jêsus cầm lấy cuộn sách Êsai rồi đọc:
"Thần
của Chúa ngự trên ta: Vì Ngài đã xức dầu cho ta đặng truyền Tin Lành cho kẻ
nghèo; Ngài đã sai ta để rao cho kẻ bị cầm được tha, kẻ mù được sáng, kẻ bị hà
hiếp được tự do; Và để đồn ra năm lành của Chúa" (Luca
4:18-19). Khả năng Chúa Jêsus chữa lành bệnh mù là không đáng ngạc nhiên và
sẽ không dẫn đến mọi thắc mắc của họ. Có một việc về người mù nầy rất khác biệt.
Tôi nghĩ vấn đề, ấy là tình trạng mù lòa của ông ta là
từ khi sinh ra. Tất nhiên là có một số cách thức trong đó thị lực có thể bị mất
đi. Tuổi già, bệnh tật, chấn thương và nhiễm trùng đều có thể dẫn đến tình trạng
mù lòa. Phương chữa lành kỳ diệu của Chúa Jêsus về mọi khó khăn này là bằng chứng
cho lòng thương xót và quyền phép của Ngài. Nhưng trong các trường hợp như vậy,
chẳng cần gì phải thắc mắc về sự nhân từ của Đức Chúa Trời. Sống khó khăn và may
rũi dẫn đến các hoàn cảnh thảm khốc.
Nhưng nếu một em bé có thể bị mù bẩm sinh sau đó sự tin
cậy nơi Đức Chúa Trời bị lay chuyển và quyền lực của của sự tối tăm quả thật dường
như rất là lớn. Có lẽ tôi không được an toàn như tôi nghĩ.
Một trẻ sơ sinh bị mù đã không có những suy nghĩ bất
khiết; được nuôi dạy không có bàn tay của sự kiêu ngạo ở trước mặt Đức Chúa Trời;
nó không làm tổn thương một ai; nó không làm gì để xứng đáng với sự thiếu thốn
và khó khăn đã được định cho nó. Tại sao Đức Chúa Trời lại cho phép sự bất công
này?
Trẻ thơ học biết ở độ tuổi rất sớm, chúng biết cảm nhận
chống lại sự bất công – chúng kêu lên: "sự ấy không
công bằng". Chúng ta muốn tin chúng ta đang sống trong một thế
giới mà ở đó điều thiện được khen thưởng và điều ác bị trừng phạt và con người nhận
được đúng món tráng miệng của họ. Chúng ta biết luật nhân quả. Những gì bạn
gieo, bạn gặt lấy. Nhưng không luôn luôn đâu. Các môn đồ của Chúa Jêsus thấy
người này không đáng lo ngại vì ông ta bị mù – họ đã nhìn thấy điều đó trước – nhưng
vì ông bị mù bẩm sinh kia.
Tất nhiên Kinh Thánh không bao giờ dạy chúng ta chấp
nhận một quan điểm đơn giản về sự đau khổ. Trước khi chúng ta nhìn vào cách thức
Chúa Jêsus trả lời cho các thắc mắc của môn đồ cho phép tôi đưa ra danh mục bốn
lý do chúng ta cần phải khẳng định tầm cỡ chúng ta không biết, thừa nhận rằng đau
khổ của con người bị gói ghém trong chỗ kín nhiệm. Nếu mọi sự nhọc nhằn có thể
được giải thích theo luật nhân quả:
1. Chúng ta có thể kết thúc với mấy người
bạn như Gióp đã có. Những người nầy đã nhắm vào rất nhiều nỗ lực, gây áp lực
đáng kể, để khiến cho Gióp phải thú nhận những tội lỗi mà ông đã không phạm phải
và phải công nhận một tấm lòng kiêu ngạo mà nó chẳng tồn tại. Trừ phi chúng ta
nhìn nhận rằng đau khổ thường là không đáng có 'những nhà tư vấn giỏi' có thể tạo
ra một tình hình khó khăn tồi tệ hơn nhiều.
2. Chúng ta có thể kháng cự lại việc
được tha thứ đối với những tội lỗi mà chúng ta đã phạm. Luật nhân quả xử lý chỉ
trong việc thưởng hay phạt mà thôi. Ân điển hoàn toàn không thấy có. Chúng ta sẽ
bị thua nếu chúng ta hy vọng sánh sự thất bại của tội lỗi với 'các việc lành'
để tránh né đau khổ. Những tay lang băm tôn giáo bỏ mồi trên kẻ bị bắt trong khuôn
mẫu này và tình yêu của Chúa Jêsus bị loại ra khỏi phương trình.
3. Chúng ta có thể lấy làm kiêu ngạo
khi cuộc sống của chúng ta suông sẻ. Nếu phần thưởng cho người công bình và án phạt
cho kẻ ác có thể giải thích mọi hoàn cảnh của con người thế thì giàu có và hạnh
phúc phải đánh dấu tôi là một trong những kẻ được Đức Chúa Trời ưa thích. Và tránh
né (thậm chí từ chối) sự tan vỡ và
thiếu thốn là điều rất dễ dàng.
4. Chúng ta có thể bỏ lỡ sự trưởng
thành đến từ việc tin cậy Đức Chúa Trời ở giữa đau khổ, bỏ lỡ đức tin lớn lên mạnh
mẽ trong đồng vắng. Tình yêu của Ngài đối cùng chúng ta rất là nhiều khi phần
thưởng của đời nầy rất ít.
Trước khi chúng ta quay sang Giăng 9:3, cho phép tôi
nói một lời với độc giả nào đang sống trong đau khổ, có lẽ đang ở bên bờ của sự
vô vọng — những kẻ mà sự chịu khổ của họ không những là một thắc mắc về thần học.
Kinh Thánh có hai lẽ thật quan trọng cần phải ghi nhớ. 1.- Chúng ta sẽ không
bao giờ bị bỏ (Chúa Jêsus phán: “Ta ở cùng các ngươi luôn”
Mathiơ 28:20).
2. Thế gian nầy không phải là quê hương của chúng ta — Chúa Jêsus sẽ tái lâm một
ngày kia để sửa ngay lại từng việc sai trái và làm cho mọi sự ra mới. Đức tin nắm
lấy những gì không thấy được (tình bạn của
Chúa Jêsus) và điều chi là lẽ thật (thế
giới hầu đến) mặc dù chưa biểu hiện ra.
Giăng 9:3:
“Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Đó chẳng phải tại người hay tại cha mẹ
đã phạm tội; nhưng ấy để cho những việc Đức Chúa Trời được tỏ ra trong người”
Thực vậy, Chúa lược qua thứ có ở đằng sau câu hỏi của
các môn đồ. Nỗ lực để khám phá ra nguyên nhân gây ra tình trạng mù lòa của gã
ăn mày là vô ích. Thắc mắc thích ứng là: Điều gì sẽ xảy ra kế đó? Chúng ta
không thể biết khi số phận sống nhọc nhằn của chúng ta là sự chuẩn bị cho một
công việc lớn lao của Đức Chúa Trời. Như chúng ta sẽ thấy, Đức Chúa Trời sẽ tôn
vinh Con của Ngài trên sân khấu cuộc đời của người này. Tân Ước không chứa một
lời chứng nào rõ ràng hơn lời chứng được thốt ra trong chương này bởi người bị
mù bẩm sinh. Cầu xin Chúa cho một đáp ứng thích hợp trước giông tố của cuộc sống
thì dễ hơn là xin một lời giải thích về nguyên nhân của chúng.
Giăng 9:4-7:
“Trong khi còn ban ngày, ta phải làm trọn những việc của Đấng đã
sai ta đến; tối lại, thì không ai làm việc được. Đang khi ta còn ở thế gian, ta
là sự sáng của thế gian. Nói xong, Ngài nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn
thành bùn, và đem xức trên mắt người mù. Đoạn, Ngài phán cùng người rằng: Hãy
đi, rửa nơi ao Si-lô-ê (nghĩa là chịu sai đi). Vậy, người đi đến ao đó, rửa, và
trở lại, thì được thấy rõ”.
Lời phát biểu của Chúa Jêsus: “tối
lại”? Trước tiên, Ngài biết rõ rằng chính sự sống của Ngài sắp
qua đi, nghĩa là sự sáng của thế gian sẽ bị dập tắt trong sự chết của Ngài trên
cây thập tự. Các cơ hội phục vụ dành cho Ngài giữa vòng các môn đồ trong xứ Giuđê
và Galilê sẽ đi đến chỗ kết thúc.
Tương tự như vậy, cuộc sống của chúng ta không thể
đoán trước được. Ban đêm đang đến. Giống như Đức Chúa Con hoá thân thành nhục
thể, Chúa Jêsus người Naxarét là sự sáng cho thế gian trong thế hệ của Ngài;
hôm nay Ngài đang hiện diện trong dân sự của Ngài. Chúng ta không nên trì hoãn
cơ hội cho sự phục vụ hoặc làm chứng chiếu theo giả định rằng chúng có thể được
thực hiện sau đó. Thân thể của Đấng Christ, Hội thánh, có sự kêu gọi cao nhất khả
thi, tuy nhiên rất dễ bị bắt lấy với nhà thờ, các chương trình, các phương tiện
truyền thông, và những tuyên bố về chính trị không phải là trọng tâm sứ mệnh của
chúng ta. Chúng ta phải làm công việc của mình, được Thánh Linh Ngài dẫn dắt,
trong khi chúng ta có cơ hội.
Với những lẽ đạo quan trọng như thế này trong trí ở
các câu 6-7 chắc chắn là một sự ngạc nhiên. Chúa Jêsus đưa ra một lời xưng nhận
rất phi thường
(Ta là sự sáng của thế gian) rồi nhổ trên mặt đất. Ngay cả khi chúng
ta công nhận rằng trong nước bọt thời của Ngài được xem là một loại thuốc, hành
động của Ngài có vẻ nhàm chán và tầm thường. Nhưng tôi nghĩ rằng có một điểm
quan trọng ở đây.
Làm theo 'mọi việc của Đấng
đã sai ta’ là làm cho đôi bàn tay của chúng ta phải nhuốm bẩn đi.
Nghĩa là cái chạm thuộc thể và không có dài dòng về bản chất của đau khổ. Bên
kia sự quan tâm về việc 'vô gia cư' có phải chúng ta quan tâm đến bất
kỳ người nào không có chỗ để sinh sống không? Có phải chúng ta đi cùng với một
người mẹ độc thân hoặc ghé thăm một tù nhân, hay trò chuyện thẳng thắn với một
người trẻ tuổi đang bị tổn thương? Hành động của Chúa Jêsus chạm vào người ăn
mày này có nghĩa là chúng ta không thể làm công việc của Đức Chúa Trời và giữ
khoảng cách của chúng ta.
Tôi muốn kết thúc bằng cách đọc thêm một trong các
phân đoạn nói tới "sự sáng" của Giăng.
Chúng ta ghi nhận rằng Giăng, giữa vòng các trước giả Kinh Thánh, là người thoải
mái nhất với việc sử dụng sáng và tối như một cách nói về sự công bình và sự loạn
nghịch. Ở phần cuối của sách Khải huyền, là sách cuối cùng của Kinh Thánh,
Giăng mô tả một sự hiện thấy trong đó tối tăm không thắng hơn như nó dường như đắc
thắng tại thập tự giá. Thực vậy, chiến thắng cuối cùng là với sự sáng – xua tan
bóng tối tăm, và đặt dấu chấm hết cho bệnh tật, buồn rầu, tội lỗi và đau khổ.
Khải huyền
21:22-25:
“Ở đó, tôi không thấy đền thờ nào; vì Chúa là Đức Chúa Trời toàn
năng và Chiên Con đều là đền thờ của thành. Thành cũng không cần mặt trời, mặt
trăng để soi sáng; vì vinh hiển của Đức Chúa Trời chói lói cho, và Chiên Con là
ngọn đèn của thành. Các dân sẽ đi giữa sự sáng thành đó và các vua trên đất sẽ
đem vinh hiển mình vào đó. Những cửa thành ban ngày không đóng, vì ở đó không
có ban đêm”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét