ĐẤNG CỨU THẾ XUẤT HIỆN:
ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG CHÚNG TA
Chúng ta đang
dõi theo EPIC, Câu
chuyện đáng kinh ngạc nói tới Đức Chúa Trời và Thế gian, và giờ đây đã
đến với sự giáng sinh của Đấng Mêsi. Các lời hứa của Đức Chúa Trời với Ápraham đã
khởi sự một thời kỳ 2000 năm chờ đợi một con trai của Ápraham là Đấng sẽ giải cứu
một dòng giống nhân loại tan vỡ và bị hư mất. Chúa Jêsus đã ra đời “đúng kỳ” (Galati
4:4) — khi Đức Chúa Trời quyết định can thiệp vào các chu kỳ lặp đi lặp lại
mọi thất bại của con người trong một phương thức thật đặc biệt. Sau một thời
gian dài trông đợi, Chúa Jêsus được giới thiệu với sự thiếu vắng nét phô trương.
Nhưng Ngài là một loại Cứu Chúa thật khác biệt.
Có bốn phần
tường thuật về Chúa Jêsus bắt đầu Giao Ước Mới — Mathiơ, Mác, Luca, và Giăng. Mỗi
người trong số họ thuật lại câu chuyện nói tới cuộc đời của Chúa Jêsus: sự dạy
dỗ, các phép lạ, những mối quan hệ, và sau cùng sự chết và sự sống lại của Ngài.
Trong sáu tuần lễ, chúng ta sẽ tìm thấy mình trong các phân đoạn Kinh thánh nầy,
khởi sự với việc xem xét sự giáng sinh của Ngài trong sứ điệp nầy. Ba trong bốn
sách Tin Lành có một số tham khảo đến sự giáng sinh của Chúa Jêsus. Tin Lành
Mác không nói tới.
Chúng ta
hãy xem xét những câu đầu tiên trong Mathiơ, Luca, và Giăng.
Mathiơ
1:1: “Gia phổ Đức Chúa Jêsus Christ, con cháu Đa-vít
và con cháu Áp-ra-ham”.
Luca
1:3-4: “tôi cũng tưởng nên theo thứ tự viết mà tỏ
ra cho ông … để ông biết những điều mình đã học là chắc
chắn”.
Giăng nhắm
vào lịch sử trong phần mở đầu câu chuyện của mình.
Giăng
1:1, 14: “Ngôi Lời là Đức Chúa Trời … Ngôi
Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta”.
Thiếu đi những
ngọn đèn sáng láng và âm nhạc vang dội, chúng ta phải cẩn thận đối với những gì
thuật lại cho chúng ta biết khi đọc phần giới thiệu Chúa Jêsus. Chúng ta sẽ mở
ra trước tiên ở Mathiơ. Bảng gia phổ được ghi lại với một mục đích. Chúng ta để
ý thấy rằng bản tường trình là bất toàn (thiếu
sót một số thế hệ) và những gì chúng ta đang có được sắp đặt trong một kiểu
mẫu (3 nhóm trong 14 thế hệ theo Mathiơ).
Việc sắp nhóm nầy kêu gọi chú ý tới Ápraham và David là tổ tiên của Chúa Jêsus.
Tại sao họ
lại đặc biệt đến thế chứ?
Thứ nhứt, Cứu
Chúa phải là một dòng dõi của Ápraham, vì ông là một phần của câu chuyện thật
dài kia. Đức Chúa Trời đã hứa với vị tộc trưởng xưa kia rằng dòng dõi của ông sẽ
đem lại ơn cứu rỗi cho thế gian và Đức Chúa Trời giữ mọi lời hứa của Ngài. Tuy
nhiên, dân giao ước cho thấy họ đáng thất vọng là dường nào, Đức Chúa Trời luôn
giữ lấy sự thành tín. Chúa Jêsus là ‘dòng dõi của
Ápraham’ (Galati 3:16) Ngài làm phu phỉ lời hứa lâu
đời kia.
Thêm nữa, những
tham khảo đến Ápraham chỉ ra gia đình. Đức tin nơi Đấng Christ khiến cho từng
người trở nên con cái của Ápraham và vì lẽ đó là anh chị em với nhau. Thứ hai, dòng
dõi của Chúa Jêsus xác nhận Ngài là Vua. Nhưng Ngài là một vị vua không giống
như các vua thất bại trước Ngài — một vị vua quân chủ sẽ thiết lập sự công bình
và tôn vinh người công nghĩa. Việc Ngài ngồi lên ngôi của David chỉ là phần mở đầu
mà thôi. Vua của Israel trở thành Vua các vua, như thế vẫn chưa phải là đủ đâu —
“Cũng vì đó nên Đức Chúa Trời đã đem Ngài
lên rất cao, và ban cho Ngài danh trên hết mọi danh, hầu cho nghe đến danh Đức
Chúa Jêsus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quì xuống,
và mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus Christ là Chúa, mà tôn vinh Đức Chúa Trời, là Đức
Chúa Cha” (Philíp 2:9-11).
Gia phổ của
Mathiơ, làm nổi bật lên Ápraham và David, cung ứng cho chúng ta lý do để hy vọng
nhiều việc lớn lao và đáng kinh ngạc sẽ theo sau. Nhưng chúng ta cũng có thể để
ý thấy việc thiếu quan tâm trong lịch sử thế tục. Mathiơ cẩn thận ghi lại tên
tuổi của nhiều người nam người nữ mơ hồ, nhưng ông chẳng quan tâm mấy đến sự dấy
lên và sụp đổ của các đế quốc. Chẳng có một tham khảo nào nói tới các kim tự
tháp vĩ đại, tới bộ luật Hammurabi, tới sức mạnh hải quân của Phoenicia, tới
oai nghi rực rỡ của Babylôn, không nhắc tới các thành thị xa xôi của Đồng Bằng Indus
hay các triều đại của Trung Hoa. Đúng kỳ, Đức Chúa Trời bèn sai Con của Ngài đến
— một khoảnh khắc trong lịch sử được đánh giá bằng tình trạng của dân sự Đức
Chúa Trời, chớ không phải bằng thế lực của đời nầy.
Mathiơ
1:4b-6a: “Na-ách-son sanh Sanh-môn. Sanh-môn
bởi Ra-háp sanh Bô-ô. Bô-ô bởi Ru-tơ sanh Ô-bết. Ô-bết sanh Gie-sê; Gie-sê sanh
vua Đa-vít”.
Vậy thì, Ôbết
là ai chứ? Ông là một nông dân sống trong một thị trấn vô nghĩa, như cha ông đã
sống vậy. Bà và mẹ của ông cả hai đều là dân Ngoại. Tuy nhiên, đời sống của ông
đã được ghi lại trong Kinh thánh, được ghi nhớ và tán thưởng cho đến cõi đời đời.
Ramses II, vị Pharaôn vĩ đại của xứ Aicập, với cung điện bằng vàng và quân đội
mạnh mẽ của ông, ông là người đồng thời với Ôbết, lại chẳng được ghi nhớ chi hết.
Có ai để ý
tới món gì có trong nhà để xe 6 tháng hay 2 năm qua đâu? Có ai để ý đến địa vị
chính trị nào khoảng một năm hay mười năm qua đâu? Ngược lại, chúng ta dám chắc
rằng những gì Đức Chúa Trời đang hoàn thành trong các cộng đồng đức tin là quan
trọng cho đến đời đời, dù dường như là khiêm hạ trong một khoảnh khắc nào đó.
Chúa Jêsus đã
phán rằng một bà goá nghèo khổ kia đã bỏ hai đồng xu và hộp tiền dâng đã dâng
nhiều hơn số tiền lớn mà người giàu nọ đã dâng. Chúa Jêsus phán rằng một cuộc
viếng thăm tù nhân cô độc thì giống như thể là một cuộc thăm viếng đối với Ngài.
Tôi lãnh hội
triễn vọng về cuộc sống khi lần đầu tiên tôi là một Cơ đốc nhân — “Đời nầy rồi sẽ qua
đi, nhưng chỉ những gì được làm cho Đấng Christ mới còn mãi mà thôi”.
Bảng gia phổ của Mathiơ nhấn mạnh lẽ thật nầy.
Luca cũng
viết về sự giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Jêsus. Nếu Mathiơ bắt đầu với một
bảng gia phổ, Luca cung ứng cho chúng ta một câu nói chỉ ra mục đích của hàng sử
gia.
Luca
1:1-4: “Hỡi Thê-ô-phi-lơ quí nhân, vì có nhiều kẻ
dốc lòng chép sử về những sự đã làm nên trong chúng ta, theo như các người chứng
kiến từ lúc ban đầu và trở nên người giảng đạo đã truyền lại cho chúng ta, vậy,
sau khi đã xét kỹ càng từ đầu mọi sự ấy, tôi cũng tưởng nên theo thứ tự viết mà
tỏ ra cho ông, để ông biết những điều mình đã học là chắc chắn”.
Phân đoạn mở
đầu nầy không loè loẹt giống như bảng danh sách những lần “sanh”
của Mathiơ. Nhưng quan trọng ở chỗ nó bàn về sự đáng tin cậy. Từ những ngày đầu
sớm sủa của hội thánh cho đến hiện tại, đã có những câu chuyện không đúng nói tới
cuộc đời và mục đích của Chúa Jêsus. Chúa Jêsus đôi khi được mô tả là một nhân
vật thanh tao đang vẫy tay chào những người nào sống ‘thuộc linh song chẳng phải là tôn giáo’.
Ngài bị kể là một nhà cách mạng theo kiểu Mác-xít, một nhà hoạt động kiểu Trà Đàm,
một nhà trị liệu, một nhân vật chuyên kể chuyện đồng quê, hay một siêu anh hùng.
Phân đoạn mở
đầu của Luca chỉ cho chúng ta thấy từ chỗ suy đoán về
Chúa Jêsus đối với phần lịch sử đáng tin cậy và cẩn trọng được viết ra dưới sự
cảm thúc của Đức Thánh Linh. Vì vậy, với sự tin cậy, chúng ta cần phải
trở thành hạng học viên sốt sắng mong nghe biết sự thực về Chúa Jêsus trong
Kinh thánh.
Những câu mở
đầu của Mathiơ nhắc cho chúng ta nhớ đến vị trí của Chúa Jêsus trong lịch sử của
Israel .
Những câu mở đầu của Luca cung ứng cho chúng ta những lý do đáng tin tưởng
trong bản tường trình Kinh thánh nói tới câu chuyện của Đấng Cứu Thế. Khi qua
khỏi phần giới thiệu, Luca 1-3 ghi lại câu chuyện dài nhất nói tới sự giáng
sinh của Chúa Jêsus. Và giọng nói của những nhân vật được nghe thấy trong phân đoạn
Kinh thánh nầy vừa là các thiên sứ hay (một
lần nữa) những người nam người nữ tầm thường. Xachari, Mary, Êlisabết, mấy
gã chăn chiên, và Simêôn — hết thảy đều tầm thương — đã nắn đúc sự hiểu biết của
chúng ta về sự hoá thân thành nhục thể và kinh nghiệm của chúng ta là những người
thờ phượng.
Có lẽ có một
bài học ở đây. Nếu câu chuyện của Chúa Jêsus cung ứng cho hạng người tầm thường
một cơ hội để thốt ra sự cao trọng của Đức Chúa Trời tại ngay phần mở đầu của
nó, chúng ta cũng phải mong mỏi bài học đó cũng phải làm y như vậy. Tôi nghĩ
câu chuyện của Luca cho thấy rằng có các môn đồ tầm thường trong thời buổi và kỷ
nguyên của chúng ta, họ sẽ vui vẻ nói ra những lần họ gặp gỡ với Chúa.
Sau cùng, sách
Tin Lành Giăng cũng đưa ra những tham khảo cho phần khởi sự làm người của Chúa
Jêsus. Gánh nặng của Giăng vốn khác biệt với sự Mathiơ quan tâm về lịch sử hay
tính cách đáng tin của Luca. Ông viết về tình yêu thương vô hạn của Đức Chúa Trời
là Đấng bước từ cõi đời đời vào cõi thời gian và từ bỏ đặc ân thiêng liêng để
trở thành con người.
Giăng
1:1-14: “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức
Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. Ban đầu Ngài ở cùng Đức
Chúa Trời. . . . Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa
chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật
như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha”.
Trong sách
Philíp, Phaolô viết: “Ngài
vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời
là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống
như loài người” (Philíp 2:6-7). Ngài từ bỏ mọi sự để trở thành con
người: để trở thành một tôi tớ, một tù phạm, và một của lễ.
Sách Truyền
đạo nhận xét rằng chẳng có gì mới ở dưới mặt trời. Cuộc sống luôn luôn kết thúc
bằng sự chết. Hy vọng luôn luôn tụt xuống thành buồn rầu. Các tiên tri của Đức
Chúa Trời chẳng làm chi được trước sự bướng bỉnh kéo dài của dân sự Ngài. Và vì
thế, Đức Chúa Trời đã kiên quyết hành động bằng cách chính mình phải trở thành
con người. Sự giáng sinh của Chúa Jêsus vốn có một không hai, một việc mới mẻ ở
dưới mặt trời, một việc kỳ diệu không tưởng được — Chúng ta đã nhìn thấy sự
vinh hiển của Ngài, sự vinh hiển của Đấng có một, là Đấng ra từ nơi Cha, đầy ơn
và lẽ thật.
Cho phép
tôi đưa ra thêm một lưu ý nữa. Sách Hêbơrơ chỉ ra Đấng Christ hoá thân thành nhục
thể là thầy tế lễ thượng phẩm và mô tả sự cứu giúp khả thi cho hạng tội nhân: “Vả, vì chính mình Ngài chịu khổ trong khi
bị cám dỗ, nên có thể cứu những kẻ bị cám dỗ vậy” (Hêbơrơ 2:18).
Chúng ta cần
sự cứu giúp khi chúng ta đối diện với những nổi khát khao mạnh mẽ hay sợ hãi. Thật
là quan trọng khi nhìn biết rằng Chúa Jêsus vốn hiểu rõ năng lực của sự cám dỗ
và Ngài không phẫn nộ khi chúng ta nói với Ngài về thất bại cứ lặp đi lặp lại
hoài. Chuyến hành trình làm người của Ngài cung ứng cho Ngài sự hiểu biết bên
trong về nhu cần sự cứu giúp của chúng ta. “Vì
chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối
chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta,
song chẳng phạm tội. Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho
được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng” (Hêbơrơ
4:15-16).
Tôi muốn kết
luận phần xem xét nầy về sự ra đời của Chúa Jêsus (Emanuên, Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta) bằng cách đọc câu chuyện
nói tới kinh nghiệm của Anne trong sách Luca.
Luca
2:36-38: “Lại có bà tiên tri An-ne, con gái của
Pha-nu-ên, về chi phái A-se, đã cao tuổi lắm. Từ lúc còn đồng trinh đã ở với chồng
được bảy năm; rồi thì ở góa. Bấy giờ đã tám mươi bốn tuổi, chẳng hề ra khỏi đền
thờ, cứ đêm ngày hầu việc Đức Chúa Trời, kiêng ăn và cầu nguyện. Một lúc ấy, người
cũng thình lình đến đó, ngợi khen Đức Chúa Trời, và nói chuyện về con trẻ với mọi
người trông đợi sự giải cứu của thành Giê-ru-sa-lem”.
Giống như
bao người khác trong câu chuyện của Luca, Anne là một người tầm thường đã đưa
ra một giọng nói. Bà được mô tả rất ít ỏi — chồng bà đã mất, tuổi thanh xuân của
bà đã qua lâu rồi. Bà sống một mình và chẳng có gì xuất sắc trong kinh nghiệm
hàng ngày của bà. Tuy nhiên, một ngày kia, bà được phép đón nhận câu trả lời
cho mọi lời cầu nguyện của bà, một cuộc gặp gỡ có ba chặng. Thứ nhứt, bà trông
mong Chúa Jêsus. Thứ hai, bà dâng lên Đức Chúa Trời những lời cảm tạ và sau
cùng bà nói về Chúa cho nhiều người khác biết. Sự lựa chọn của Anne ở đây có thể
được xem như một khuôn mẫu rất hữu ích.
Nguyện bà
góp phần như sự cảm thúc cho chúng ta khi thờ lạy Chúa Jêsus, kéo đến gần, dâng
lên lời cảm tạ, và làm cho ai nầy đều nhìn biết lẽ thật của Ngài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét