MỘT QUÊ HƯƠNG ĐƯỢC BAN CHO:
BƯỚC VÀO, CHINH PHỤC, ỔN ĐỊNH
Như phần
nhiều quí vị biết đấy, tôi là mục sư chuyên về hồi phục ở Hội thánh Peninsula Bible. Nói như thế có nghĩa là,
tôi sử dụng thì giờ làm việc với hạng người đang vật vã với những cơn nghiện ngập
khác nhau, chủ yếu là họ nghiện ma túy và rượu bia. Như có lẽ phần nhiều người
trong quí vị biết đấy, một phần lý do tôi là Mục sư chuyên về hồi phục là vì
tôi có đủ tư cách — những kinh nghiệm nhất định — trong lãnh vực lạm dụng những
thứ ấy. Thực vậy, như tôi thường nói cho mọi người biết, tôi có 20 năm sống
trong thập niên 60, sử dụng ma túy cao độ và thân thể tôi chịu nhiều kinh nghiệm
về hóa trị.
Trong thập
niên thứ nhì của tôi sống ở thập niên 1960 — một thập niên mà hầu hết mọi người
đều đề cập tới là thập niên 1970! — có một album rất hay của Carole King tên là
Tapestry.
Album nầy đã đoạt giải thưởng Grammy về album của năm vào năm 1972, bán được 25
triệu bản trên khắp thế giới. Album cũng chứa một bài hát rất hay mà tôi ưa
thích có đề tựa là “Home Again”, bản nhạc bắt đầu với các dòng sau:
Có lúc
tôi tự hỏi sao mình không về nhà lại
Cái chuyện
thật xa vời và viễn vông
Thực sự
tôi cần có ai đó để trò chuyện,
Và đêm
nay chẳng có ai biết vỗ về yên ủi tôi
Bài hát có
lẽ đã được hát lên để làm sao có được cái chạm đầy trọn của nó, nhưng khi tôi
có chút tiếng tăm và từ khi tôi có một thời điểm khó nhọc để có được chút tiếng
tăm ấy, tôi sẽ cần đến quí vị. Tuy nhiên … dù được hát lên hay nói ra, tôi luôn
luôn nhìn thấy hai dòng đầu đặc biệt thật cảm động — “Có lúc tôi tự hỏi sao mình không về nhà lại
- Cái chuyện thật xa vời và viễn vông”. Tôi cảm nhận rõ ràng theo
cách ấy vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời của tôi, phần lớn vào những
lúc tôi đang phê ma túy và bụi đời vô mục đích từ nơi nầy đến chỗ khác. Tôi cảm
thấy như mình cách xa nhà cả ngàn dặm — cả ngàn dặm đối với nơi mà tôi thuộc về
— và tôi tự hỏi sao mình không về nhà lại. Có lẽ một số người trong quí vị cũng
đã cảm nhận cùng một cách như thế.
Cuối cùng, khi
tôi giờ đây đạt tới chỗ nhận biết, sống trong gia đình là một cuộc sống còn hơn
là một địa điểm nữa. Woody Allen từng nói: “Cái điều hối tiếc duy nhứt của tôi, ấy là tôi không chào đời
là một người khác”. Cái nuối tiếc duy nhứt của ông, ấy là ông không
có một cuộc sống hoàn toàn khác biệt. Ông không thích cuộc sống mà ông hiện có —
ông không cảm nhận kiểu ‘ở nhà’ trong chính cuộc sống của ông — và kết quả
là ông rất khổ sở. Đấy cũng là kinh nghiệm của tôi nữa. Tôi khao khát một cuộc
sống — một cuộc sống thật đàng hoàng, cuộc sống sao cho giống như gia đình — nhưng
dường như tôi không thể tìm được cuộc sống ấy. Tôi đã đi hết chỗ nầy đến chỗ
khác, tìm cách cảm nhận như ở tại nhà, kết quả luôn luôn giống như nhau: tôi vẫn
không thích cái con người của mình. Như một câu nói xưa: “Bất cứ đâu ngươi đi, vẫn chính là ngươi đấy
thôi!”
Đúng đấy … với
điều đó trong trí — với quan niệm ‘nhà’ và tự hỏi sao bạn không về nhà lại — bạn sẽ
nhớ lại rằng chúng ta hiện đang nếm trải toàn bộ Kinh thánh trong chuyến hành
trình 9 tháng có đề tựa là Epic: Câu chuyện đáng kinh ngac nói tới Đức Chúa Trời và thế gian.
Bạn cũng sẽ nhớ, sớm sủa trong chuyến hành trình, Đức Chúa Trời đã hứa với
Ápraham và dòng dõi ông một quê hương. Ngài đã hứa với họ một chỗ mà ở đó họ có
thể sinh sống — một vùng đất đượm sữa và mật, ở đó họ có thể định cư và có đời
sống mà Ngài đã dự trù cho họ.
Tuy nhiên, như
chúng ta học biết trong sách Sáng thế ký, Ápraham đã mất nhiều năm lưu lạc
trong Đất Hứa, nhưng thực sự chưa bao giờ chiếm hữu được nó. Ông chưa bao giờ
thực sự định cư trong đó. Điều nầy cũng rất thực đối với con trai ông là Ysác, và
cháu nội ông là Giacốp. Về sau, 12 người con của Giacốp cùng nhau rời Đất Hứa mà
đi xuống Aicập, ở đó các dòng dõi của ông đã ở lại trong 430 năm cho tới khi
Môise sau cùng đưa họ ra khỏi Aicập rồi vào trong đồng vắng trong Cao Nguyên Sinai.
Mọi sự trong mọi sự, Ápraham và dòng dõi của ông đã tốn 600 năm ròng rã mà
không có một quê hương. Họ tốn nhiều thế kỷ hát lên bài “Home Again” mang biến tấu Hêbơrơ xưa,
tự hỏi sao họ không về nhà lại — từng biến nơi ấy thành một chỗ mà ở đó họ thực
sự cảm thấy như họ vốn thuộc về.
Từ bài học
của tuần rồi, bạn cũng nhớ lại rằng dân Do thái đã có một cơ hội để vào trong Đất
Hứa, nhưng họ đã lui đi trong sợ hãi. Ở Dân số ký 13, như Phaolô nói cho chúng
ta biết vào tuần rồi, Môise đã sai 12 thám tử vào trong xứ trong một sứ mệnh do
thám. Hai trong số các thám tử, Giôsuê và Calép, đã khích lệ dân sự cứ tiến tới
trước bởi đức tin. Các thám tử khác lui đi trong sợ hãi, làm cho dân sự tin rằng
những gã giềnh giàng và các thành được phòng thủ chặt chẽ quá kiên cố không thể
đánh bại được. Kết quả là, Đức Chúa Trời đã xét đoán toàn bộ thế hệ đó — những
ai trên 20 tuổi — phải lang thang và ngã chết trong đồng vắng.
Một phần
trong những điều tôi đề xuất sáng nay, ấy là có nhiều Cơ đốc nhân đã đưa ra một
sự lựa chọn đáng tiếc tương tự. Thay vì bởi đức tin cứ tiến tới đàng trước, họ
lui đi trong sợ hãi. Thay vì tiến tới trước vào trong Đất Hứa — tiến thẳng vào
cuộc sống mà Đức Chúa Trời đã hứa với họ — họ đã từ chối không đanh trận với những
gã giềnh giàng cùng các thành được phòng thủ chặt chẽ kia. Như một kết quả, kinh
nghiệm Cơ đốc của họ đã kết thúc như một đồng vắng trơ trọi, hoang vu, và ảm đạm.
Họ chưa bao giờ thực sự xem đấy là quê hương, chưa bao giờ thực sự tìm gặp một
cuộc sống đượm sữa và mật.
Theo một ý
nghĩa, quê hương sau cùng trong vai trò Cơ đốc nhân tất nhiên là thiên đàng. Chúa
Jêsus đã tuyên bố trong Giăng 14 rằng Ngài sẽ đi sắm sẵn một chỗ cho chúng ta —
một quê hương cho chúng ta — ở đó chúng ta sẽ ở với Ngài cho đến đời đời. Tuy
nhiên, theo một ý nghĩa khác nữa, chúng ta có thể bắt đầu bước vào quê hương ấy,
vào trong sự sống ấy, đương lúc bây giờ. Chúng ta có thể bắt đầu kinh nghiệm một
mối quan hệ với Đức Chúa Trời trong đời nầy, cùng với bông trái của Đức Thánh
Linh, kể cả nhận thức ngày càng tăng về tình yêu thương, sự vui mừng và sự bình
an.
Tuy nhiên, để
kinh nghiệm bông trái nầy của Đức Thánh Linh, chúng ta cần phải sẵn sàng đánh
trận với những gã giềnh giàng kia. Chúng ta cần phải bằng lòng đánh trận với
các lãnh vực trong đời sống chúng ta, ở đó quyền phép của tội lỗi hãy còn có
các đồn lũy của nó. Nếu chúng ta bằng lòng tham dự các trận chiến — các trận
chiến chống lại mọi đồn lũy như nghiện ngập, giận dữ, tự thương hại, kiêu ngạo,
ghen ghét, tư dục, trì trệ, v.v… — khi ấy chúng ta sẽ có cuộc sống ngày càng đượm
đầy với sữa và mật. Nếu chúng ta không bằng lòng tham dự các trận chiến — nếu
chúng ta lui đi trong sợ hãi, khi ấy đời sống của chúng ta sẽ tiếp tục là trơ
trọi, hoang vu, và ảm đạm giống như Cao Nguyên Sinai hay Trũng Bóng Chết.
Hôm nay, chúng
ta sẽ nhìn vào sách Giôsuê — sách thứ sáu của Kinh thánh — là quyển sách nói tới
thể nào dân Do thái sau cùng đã bước vào, chinh phục, và ổn định trong đó. Giôsuê
là một trong các sách lịch sử quan trọng của Cựu Ước, tường thuật lại thể nào
dân Do thái sau cùng đã tìm gặp một quê hương xứ sở. Sách ấy nói tới cách thức
họ chiếm lấy xứ mà Đức Chúa Trời đã hứa với Ápraham cùng dòng dõi của ông nhiều
thế kỷ trước đó.
Thêm nữa, như
nhiều người đã quan sát thấy, quyển sách cũng cung ứng các bài học thuộc linh rất
có giá trị — đặc biệt các bài học nói tới cách thức tiến thẳng tới bởi đức tin
thay vì lui đi trong sợ hãi. Hơn nữa, sách ấy còn tỏ ra cho chúng ta thấy cách
thức đánh trận với những gã giềnh giàng cùng những thành trì được phòng thủ chặt
chẽ khi chúng ta tìm cách chiếm hữu sự sống mà Đức Chúa Trời dự trù cho chúng
ta. Nói khác đi, sách Giôsuê được dành cho những ai sẵn sàng rời khỏi đồng vắng
rồi tiến thẳng vào Đất Hứa, tìm kiếm một quê hương, với lòng nhận biết rằng cuộc
tìm kiếm sẽ bao gồm những chiến trận ác liệt và đắc thắng vinh quang.
Sâu xa như
sách Giôsuê vốn có, như tôi đã đề xuất, quyển sách có thể được chia ra thành ba
phần có quan hệ với các từ ngữ ‘bước vào, chinh phục, và ổn định’. Các chương
1-5 thuật lại thể nào dân Do thái bước vào Đất Hứa, các chương 6-12 thuật lại
thể nào họ đã chinh phục Đất Hứa, và các chương 13-22 thuật lại thể nào họ ổn định
Đất Hứa. Hai chương sau cùng — các chương 23 và 24 — là bài diễn văn từ biệt của
Giôsuê, ở đó ông tuyên bố ra sự thành tín của Đức Chúa Trời và giục giã dân Do
thái phải tiếp tục tiến thẳng tới bởi đức tin hoặc gánh chịu những hậu quả đầy
thảm hoạ.
Sau khi thực
hiện chia quyển sách ra làm ba phần, thì giờ của chúng ta sáng nay sẽ tập trung
vào từ ngữ chính kết hợp với từng sự phân chia — bước vào, chinh phục, và ổn định. Làm
thể nào dân Do thái bước vào vùng đất ấy, làm thể nào họ chinh phục được vùng đất
ấy, và làm thể nào họ ổn định được phần đất ấy? Thêm nữa, chúng ta đầy hy vọng
học biết các bài học về việc tiến thẳng tới trong chuyến hành trình đức tin của
chính chúng ta. Làm thế nào chúng ta bước vào các lãnh vực mà Đức Chúa Trời đang
kêu gọi chúng ta phải bước vào, làm thế nào chúng ta có thể chinh phục các kẻ
thù mà Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta phải thắng hơn, và làm thế nào chúng ta
có thể ổn định trong loại cuộc sống mà Đức Chúa Trời đang kêu chúng ta phải
sinh sống?
Bước
Vào Đất Hứa
Khi đến lúc
phải vào trong xứ — vào trong những lãnh vực của đời sống chúng ta có khả năng
khó khăn, nguy hiểm, và đầy kinh hãi — tất nhiên thắc mắc phải có là: làm sao
vào được đó chứ? Cứ tiến tới khi chúng ta sợ hãi có khả thi chăng? Làm sao đương
đầu với mọi nổi sợ hãi lẽ ra phải bỏ chạy chứ? Đây là thắc mắc mà dân Do thái đã
đối diện với ngay rìa Đất Hứa khoảng năm 1400TC, và đấy là thắc mắc tiếp tục đối
diện với mỗi một người chúng ta ngày nay.
Cảm tạ Chúa,
chương 1 sách Giôsuê nói tới chính đề tài nầy — đề tài nói tới việc đối diện với
mọi nổi sợ hãi của chúng ta. Đức Chúa Trời vốn biết rõ dân Do thái đã có một lịch
sử lâu dài sống trong sợ hãi, và Đức Chúa Trời biết rõ bạn và tôi đều có một lịch
sử lâu dài sống trong sợ hãi nữa đấy. Nổi sợ hãi của dân Do thái, cùng với nổi
lo sợ của chính chúng ta, chẳng có gì phải ngạc nhiên đối với Đức Chúa Trời. Đức
Chúa Trời vốn biết rõ chúng ta thường sống trong sợ hãi, và Ngài biết rõ nổi sợ
hãi phân rẻ chúng ta ra khỏi sự sống — phân rẻ chúng ta ra khỏi sự sống mà Ngài
muốn chúng ta phải sống. Kết quả là, trong chương 1, Đức Chúa Trời nói tới đề
tài làm thể nào để bước vào lãnh địa đầy đau khổ nầy. Ngài phát ra đề tài nói tới
cách thức phải bằng lòng đương diện với mọi nổi lo sợ ấy — thậm chí phải bằng
lòng xem xét đương đầu với những gã giềnh giàng cùng các thành trì được phòng
thủ chặt chẽ kia.
Giôsuê 1:6-9:
“Hãy vững lòng bền chí, vì ngươi sẽ dẫn dân
này đi nhận lấy xứ mà ta đã thề cùng tổ phụ ban cho chúng nó. Chỉ hãy vững lòng
bền chí, và cẩn thận làm theo hết thảy luật pháp mà Môi-se, tôi tớ ta, đã truyền
cho ngươi; chớ xây qua bên hữu hoặc bên tả, để hễ ngươi đi đâu cũng đều được thạnh
vượng. Quyển sách luật pháp này chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu
cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn
trong con đường mình, và mới được phước. Ta há không có phán dặn ngươi sao? Hãy
vững lòng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi
vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi”.
Rõ ràng, điệp
khúc được lặp đi lặp lại trong mấy câu nầy là ‘hãy vững lòng bền chí’. Theo một
ý nghĩa, lời lẽ của Đức Chúa Trời dường như là quá hiển nhiên — giống như một lời
công bố quá rõ ràng. Khi dân sự lo sợ, họ cần phải vững lòng bền chí. Tuy nhiên,
như Doug Goins từng lưu ý: “Người ta cần sự khích lệ hơn là khuyên nhũ”. Người
ta thường biết rõ họ cần phải làm gì rồi, song họ thiếu sự khích lệ để tiến tới
đàng trước và thực hiện công việc ấy. Cái điều họ cần là sự khích lệ được lặp đi
lặp lại của những người biết yêu thương, biết quan tâm tới; và đặc biệt lời
khích lệ được lặp đi lặp lại đến trực tiếp từ Đức Chúa Trời.
Thí dụ, khi
tôi làm việc với những kẻ nghiện ngập (đủ
thứ), thường thì chẳng có hiệu lực chi cả khi tôi dùng lời khuyên nhũ họ, tỉ
như “Anh thôi đừng
uống nữa” hay “Chị thôi đừng phê heroin nữa”. Trong đại đa số
các trường hợp, những kẻ nghiện ấy vốn biết rõ nhu cần phải thôi không phê heroin
và uống vodka nữa, điều đó khổ sổ lắm. Cái điều họ thực sự cần là sự khích lệ —
khích lệ phải đánh trận với những đồn lũy đầy quyền lực và chốt trụ lâu dài kia.
Đặc biệt, như tôi đã nói, họ cần sự khích lệ liên tục của Đức Chúa Trời. Tuy
nhiên, một trong những ân tứ thuộc linh được nhắc tới trong Tân Ước là ân tứ
khích lệ (Rôma 12:8) — sự khích lệ của
Đức Chúa Trời đang tác động qua dân sự của Đức Chúa Trời. Tôi tin đây là một
trong những ân tứ có cần nhất trong hội thánh ngày nay — ân tứ khích lệ nhau giữa
các chiến trận thường là rất khó khăn và đầy dẫy với sợ hãi.
Tất nhiên, như
khích lệ là một ân tứ rất nâng đỡ, chỉ cần bảo ai đó hãy vững lòng bền chí
không nhất thiết biến họ thành vững lòng bền chí đâu, nói với ai đó phải sống hạnh
phúc không nhất thiết là khiến cho họ được hạnh phúc đâu. Chắc chắn, Đức Chúa
Trời có thể tác động theo cách thức nầy, Ngài cài đặt sức lực và sự dạn dĩ thật
lạ lùng nơi mạng lịnh của Ngài, nhưng thường thì Ngài không dẫn chúng ta qua một
tiến trình đâu. Sức mạnh và lòng dạn dĩ không thường xảy đến trong khoảnh khắc đâu.
Chúng là những đặc điểm mà Đức Chúa Trời gây dựng trải theo thời gian.
Cảm tạ Chúa,
trong mấy câu nầy, Đức Chúa Trời nói cho chúng ta biết bí quyết của tiến trình
nầy. Ngài nói cho chúng ta biết bí quyết của việc phát triển sức lực và lòng dạn
dĩ — loại sức lực và lòng dạn dĩ sẽ giúp cho Giôsuê và dân Do thái dám bước vào,
chinh phục và ổn định Đất Hứa, và loại sức lực và lòng dạn dĩ giúp cho bạn và
tôi thực hiện y như vậy. Bí quyết nầy được tỏ ra ở câu 8, ở đây Đức GIÊHÔVA phán: “Quyển sách luật pháp
này chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều
đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới
được phước”.
Tất nhiên,
chúng ta là hạng thánh đồ của Tân Ước, chớ không phải hạng thánh đồ của Cựu Ước.
Đối với chúng ta, luật pháp không còn là ngoại tại nữa, được viết trên hai bảng
đá. Thay vì thế, luật pháp đang ở chỗ nội tại, được viết ra trên bảng lòng của
chúng ta. Như được chép lại trong Giêrêmi 31:33: “Ta
sẽ đặt luật pháp ta trong bụng chúng nó và chép vào lòng”. Tuy nhiên, đối với cả hai hạng
thánh đồ, dù trong Tân hay Cựu Ước, nguyên tắc vẫn như nhau: nếu chúng ta làm mọi
việc theo đường lối của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ nhận lãnh sức lực và lòng
can đảm. Nếu chúng ta làm mọi việc theo đường lối của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ
thành công trong bất cứ điều chi Ngài kêu gọi chúng ta phải lo làm.
Đặc biệt hơn
nữa, câu nầy chứa ba từ nằm ở trọng tâm của bí quyết. Các từ ngữ ấy là miệng, suy gẫm,
và làm theo.
Thứ nhứt, chúng ta cần phải có lời lẽ nào làm đẹp lòng Đức Chúa Trời và suy gẫm
về Đức Chúa Trời thoát ra từ môi miệng của mình. Phải, không những chúng ta cần
phải bước đi trong sự ăn ở, mà còn nói năng phải lẽ nữa. Môi miệng của chúng ta
dâng lên lời ngợi khen Chúa là điều rất quan trọng, ở đó chuyển tải lẽ thật của
Ngài, và nói năng trong những cách thức giữ theo mọi điều Lời Ngài đã được công
bố ra. Lời lẽ của chúng ta phải luôn phù hợp với Lời của Đức Chúa Trời.
Thứ hai, chúng
ta cần phải suy gẫm luật pháp của Đức Chúa Trời — suy gẫm luôn Lời của Ngài. Đây
không phải là loại tư tưởng về thiền của Đông phương đâu, như kiểu Thiền Siêu
Việt, ở đó một câu thần chú được lặp đi lặp lại luôn. Thay vì thế, sự suy gẫm
theo Kinh thánh bao gồm việc dính dáng sâu sắc của tấm lòng và lý trí. Suy gẫm
cần phải làm với khao khát của chúng ta muốn gặp gỡ Đức Chúa Trời khi chúng ta
thành khẫn suy gẫm Lời của Ngài. Chúng ta phải khát khao lắng nghe từ Đức Chúa
Trời và hiểu rõ mọi điều Ngài đã phán dạy, và chúng ta sẽ không bao giờ vững lòng
bền chí cho tới chừng nào Lời của Đức Chúa Trời trở nên sâu lắng, nội tại sâu sắc,
chớ không phải chỉ là lời lẽ đơn thuần ở ngoài mặt mà thôi.
Và thứ ba, chúng
ta cần phải làm theo những gì Lời của Đức Chúa Trời đã bảo chúng ta phải làm
theo. Chúng ta phải bước đi y như mình đã nói, không những nói như mình đã nói,
với sự nhìn biết rằng hành động nói lớn tiếng hơn lời nói. Quả thật, khi có một
sự khác biệt — khi lời nói của chúng ta tuyên bố ra một sứ điệp rồi mọi hành động
của chúng ta lại khác đi — hầu hết mọi người sẽ tin vào hành động của chúng ta
hơn là lời nói của chúng ta. Hầu hết mọi người sẽ tin rằng hành động của chúng
ta là lời tuyên bố đích thực những gì chúng ta thành thực tin theo.
Miệng, suy gẫm, làm
theo: ba từ nầy nằm ngay trọng tâm của việc tìm kiếm sức lực và lòng
dạn dĩ. Chúng nằm ở ngay cốt lõi, gần gũi với Đức Chúa Trời trong từng phương
diện của đời sống chúng ta. Cũng rất là hy vọng khi chúng ta đến gần với Đức
Chúa Trời, chúng ta sẽ bắt đầu nhận ra sức lực và lòng dạn dĩ đích thực kia đến
từ chính mình Đức Chúa Trời. Chúng không đến từ chúng ta. Chúng không phải là
những đức tính mà chúng ta có thể tự tạo hay làm ra bằng một cách thế nào đó đâu.
Như Kinh thánh tỏ ra trong sách Philíp: “Tôi
làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Philíp
4:13). Nếu chúng ta cứ ở gần Đức Chúa Trời trong từng phương diện của đời sống
chúng ta — với môi miệng, với sự suy gẫm, rồi với mọi hành động của chúng ta — Đức
Chúa Trời sẽ liên tục tiếp trợ cho chúng ta sức lực và lòng dạn dĩ mà chúng ta đang
có cần. Sức lực và lòng dạn dĩ của Ngài, chớ không phải của chúng ta, sẽ giúp
cho chúng ta đối diện với mọi sợ hãi rồi bước vào chiến trận mà có lẽ chúng ta đã
lẫn tránh bao thập niên nay.
Một lần nữa,
chúng ta bắt đầu có sức lực và lòng dạn dĩ — sức lực và lòng dạn dĩ Đức Chúa Trời
ban cho —chúng ta đã sẵn sàng bước vào vùng đất ấy. Chúng ta sẵn sàng đối diện
với mọi nổi lo sợ rồi để đồng vắng lại ở sau lưng. Chúng ta đã sẵn sàng đánh trận
với những gã giềnh giàng và các thành trì được phòng thủ kiên cố, với lòng nhìn
biết, như đã được chép trong Tân Ước: “trong
mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần” (Rôma
8:37).
Buồn thay, chúng
ta không có thì giờ sáng nay để nhìn vào những truyện tích lạ lùng nói tới cách
thức dân Do thái thực sự bước vào vùng đất ấy. Chúng ta không có thì giờ để
nhìn vào câu chuyện nói tới Raháp — kỵ nữ trong thành Giêricô, là người vốn có đức
tin (hay, như một người nghiện ma túy gọi
nàng, Rêháp cô gái điếm!). Chúng ta cũng không có thì giờ để nhìn vào phương
thức lạ lùng trong đó dân Do thái đã băng qua sông Giôđanh — một con sông mà Đức
Chúa Trời đã rẻ ra một cách siêu nhiên cho họ giống như Ngài đã rẻ Biển Đỏ khi
họ rời xứ Aicập vậy — chúng ta cũng không có thì giờ để nói tới thể nào dân Do
thái dựng lên các hòn đá kỷ niệm bên dòng sông Giôđanh, chúng ta cũng không có
thì giờ để nói tới dân Do thái làm cách nào tái lập lại phép cắt bì và Lễ Vượt
Qua, mà họ đã bỏ đi ở trong đồng vắng.
Một khi mục
đích của chúng ta sáng nay là cung ứng một nhận định bao quát về toàn bộ quyển
sách, chúng ta cần tiến tới phía trước — tiến tới từ chỗ bước vào đến chỗ chinh
phục vùng đất ấy.
Chinh
Phục Đất Hứa
Sau khi băng
qua sông Giôđanh, dân Do thái bắt đầu chiến dịch chinh phục của họ — một chiến
dịch kéo dài khoảng 7 năm trời. Mỗi một người chúng ta dĩ nhiên có những gã giềnh
giàng cùng những thành trì kiên cố. Chúng ta có những thói tật, thái độ, đường
lối bất kính khi quan hệ với con người, các tư tưởng, cảm xúc, và động cơ mà Đức
Chúa Trời muốn hủy diệt. Trong các thuật ngữ về thần học, đây là tiến trình về
sự nên thánh — tiến trình mà bởi đó Đức Chúa Trời biến đổi chúng ta ngày càng
thêm ra giống như ảnh tượng của Đấng Christ, hủy diệt các đồn lũy của tội lỗi
trong đời sống của chúng ta.
Thắc mắc là:
chúng ta tham dự các trận chiến nầy bằng cách nào? Làm sao chúng ta có thể thắng
hơn những gì là bất kỉnh? Thí dụ, làm sao Đức Chúa Trời có thể nắm lấy một tên
hippie hay giận dữ, chỉ biết đến mình, tự thương hại, say xỉn, chích choác như
tôi vào thập niên 1960 và 70 rồi biến hắn thành thứ gì đó khác chứ? Làm sao Đức
Chúa Trời có thể đưa chúng ta từ chỗ kia đến chỗ nầy được? Làm sao Ngài có thể
tạo ra được sự thay đổi đích thực nơi đời sống của chúng ta chứ?
Được thôi …
là một phần của giải đáp cho các thắc mắc ấy, tôi muốn dành ra một vài phút
nhìn vào trận chiến nổi tiếng nhất trong sách Giôsuê — trận chiến tại thành
Giêricô. Đây là câu chuyện thật tuyệt vời nói tới cách các bức tường thành
Giêricô phải sụp đổ xuống sau khi dân Do thái diễu hành quanh thành trong 7
ngày rồi họ trổi tiếng kèn và la lớn lên. Đây cũng là một câu chuyện phác hoạ cách
thức chúng ta có thể tham dự những trận đánh trong chính đời sống của chúng ta,
đặc biệt các chiến trận chống lại mọi đồn lũy tội lỗi bám trụ lâu dài.
Chiến trận
thực sự chinh phục thành Giêricô, đã được ban cho Giôsuê bởi chính mình Chúa, được
ghi lại ở Giôsuê 6.
Giôsuê 6:3-5:
“Vậy, hết thảy các ngươi, là chiến sĩ, hãy đi
vòng chung quanh thành một bận; phải làm như vậy trong sáu ngày. Bảy thầy tế lễ
sẽ đi trước hòm giao ước cầm bảy cái kèn tiếng vang; nhưng qua ngày thứ bảy,
các ngươi phải đi vòng chung quanh thành bảy bận, và bảy thầy tế lễ sẽ thổi kèn
lên. Khi những thầy tế lễ thổi kèn vang, các ngươi vừa nghe tiếng kèn, hết thảy
dân sự phải la tiếng lớn lên, thì vách thành sẽ sập xuống, rồi dân sự sẽ leo
lên, mỗi người ngay trước mặt mình”.
Không cần
phải thắc mắc, kế hoạch của chiến trận nầy không giống như bất kỳ trận đánh nào
trong lịch sử — và chắc chắn không giống như bất kỳ trận đánh nào được truyền dạy
ở trường Võ Bị West Point hay Annapolis. Thay vì tham gia vào chiến cuộc (thực hiện một tuyến bao vây, bắn các mũi
tên lửa vòng qua các bức tường, hay đánh sập hai cổng thành), Đức GIÊHÔVA truyền cho Giôsuê làm theo một chiến lược thật
là lạ lùng và thậm chí rất nực cười. Quan niệm về việc chinh phục một thành phố
bằng cách diễu hành quanh nó rồi tạo ra nhiều tiếng ồn chẳng có ý nghĩa gì cả –
ít nhất là từ nhận định về phía con người.
Tuy nhiên, như
Sứ đồ Phaolô nói cho chúng ta biết: “Vả,
những khí giới mà chúng tôi dùng để chiến tranh là không phải thuộc về xác thịt
đâu, bèn là bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, có sức mạnh để đạp đổ các đồn lũy” (II
Côrinhtô 10:4). Một phần trong công cuộc chinh phục các đồn lũy cùng những
gã giềnh giàng trong chính đời sống chúng ta bao gồm việc học tập làm theo kế
hoạch chiến trận của Đức Chúa Trời, thay vì kế hoạch của chúng ta. Đặc biệt đây
cũng chính là ý tưởng được bày ra trong Châm ngôn 3:5-6: “Hãy
hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va, chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con, phàm
trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài, thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của
con”. Nếu chúng ta tin cậy nơi Đức Chúa
Trời, tìm cách làm theo mọi việc theo cách của Ngài thay vì theo cách của chúng
ta, Ngài sẽ ban bằng mọi đường lối của chúng ta — Ngài sẽ ban cho chúng ta chiến
thắng — thậm chí khi kế hoạch tác chiến của Đức Chúa Trời dường như đi ngược lại
với sự hiểu biết và cảm xúc của chính chúng ta.
Khi lần đầu
tiên tôi trở thành một Cơ đốc nhân, có nhiều tín hữu trưởng thành đến nói với
tôi: “Hãy đọc
Kinh thánh, cầu nguyện, sống trong mối tương giao với các Cơ đốc nhân khác, rồi
tìm kiếm cơ hội để phục vụ cho tha nhân”. Điều nầy nghe như là một kế
hoạch tác chiến rất kỳ lạ đối với tôi — kỳ lạ ở chỗ diễu hành quanh một thành
phố, tạo ra nhiều tiếng ồn, rồi hy vọng rằng các bức tường kia không cứ cách
nào đó sẽ sụp xuống. Kế hoạch chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi cả. Thế mà tôi lại
làm theo những gì họ nói với tôi, rồi khi nhiều năm tháng trôi qua, các bức tường
của nhiều thành trì quân nghịch đã bị sụp xuống. Đức Chúa Trời đã ban cho tôi
thắng hơn nhiều lãnh vực của tội lỗi trong đời sống tôi, rồi như một kết quả, đời
sống tôi đã thực thay đổi khá hơn nhiều. Tất nhiên … tôi hãy còn ở trong tiến
trình (và nếu bạn không tin điều đó, chỉ
cần hỏi vợ tôi!), nhưng cảm tạ Chúa, tôi biết rằng “Đấng
đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết” (Philíp
1:6).
Bài học
hoàn toàn là như vầy đây: nếu chúng ta bước vào xứ tin cậy nơi sức lực và lòng
dạn dĩ của Đức Chúa Trời, chúng ta cũng phải chinh phục xứ bằng cách nương cậy
nơi kế hoạch của Ngài. Nếu chúng ta tin cậy nơi quyền phép của Ngài và nương
theo kế hoạch của Ngài, khi ấy Đức Chúa Trời sẽ khiến cho đồn lũy kiên cố nhất
của quân nghịch sẽ sụp đổ trong thất bại. Như có chép trong sách Rôma: “Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì
còn ai nghịch với chúng ta?” (Rôma 8:31).
Dân Do thái
thực đã tin cậy nơi quyền phép của Đức Chúa Trời và nương theo kế hoạch tác chiến
của Ngài, và, như Ngài đã hứa, Đức Chúa Trời đã ban cho họ một chiến thắng tuyệt
đối thật lạ lùng và khó mà tin nổi.
Giôsuê 6:20-21:
“Vậy, dân sự la lên, và những thầy tế lễ thổi
kèn. Vừa khi dân sự nghe tiếng kèn, bèn la lớn lên, và vách thành liền ngã sập,
dân sự leo lên thành, mỗi người ngay trước mặt mình. Chúng lấy thành, đưa gươm
qua diệt mọi vật ở trong thành, nào nam phụ lão ấu, cho đến bò, chiên, và lừa”.
Chiến thắng
phải là chiến thắng hủy diệt toàn bộ kẻ thù. Quan niệm nầy có thể là khó cho
chúng ta hiểu được — quan niệm tàn sát người nam, người nữ, con trẻ, và thậm
chí các bầy gia súc. Quan niệm diệt chủng trong Cựu Ước có thể khó mà hiểu được
lắm. Tuy nhiên, từ chỗ ứng dụng cá nhân, ý nghĩa của nó đơn giản hơn nhiều. Chúng
ta mong muốn tiêu diệt hoàn toàn điều ác ra khỏi đời sống chúng ta. Chúng ta
không muốn một dấu vết nào của nó còn lại. Nếu bạn đánh trận với vấn đề khiêu
dâm, hãy loại bỏ từng trang web trên máy tính và từng tạp chí có trong nhà của
bạn đi — đừng để lại một chút gì quanh đó! Nếu bạn đang vật vã với rượu chè, hãy
bỏ đi từng giọt rượu! Đừng giấu một chai whiskey nào dưới giường mình và hai
chai chardonnay [rượu nho] trong tủ
kín của mình. Nếu bạn chưa hoàn toàn loại bỏ các thứ đó — hoàn toàn thủ tiêu
chúng – chúng sẽ trở lại cắn bạn sau nầy. Chúng sẽ trở lại để cám dỗ, rủ rê, và
gài bẫy bạn — và chẳng chóng thì chày chúng sẽ làm như thế.
Không may, trong
cuộc chinh phục xứ của họ, dân Do thái không loại bỏ hoàn toàn sự hiện diện của
điều ác. Họ không quét sạch hoàn toàn dân cư, và sự bất tuân của họ đã trở lại
cám dỗ, quyến dụ, rồi gài bẫy họ trong vòng một thế hệ. Như Chúa đã nói với họ
trước rồi, nếu dân cư không bị tiêu diệt hoàn toàn: “…chúng
nó dạy các ngươi bắt chước làm theo những sự gớm ghiếc chúng nó đã làm, đặng
cúng thờ các thần chúng nó, e các ngươi phạm tội cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời
các ngươi chăng” (Phục truyền luật lệ ký 20:18).
Điều ác không phải là không nhạy bén đâu. Không những nó tồn tại dường vô hại
và trông rất hiền từ. Thay vì thế, nó giống như chứng ung thư ác tính. Nếu từng
dấu vết chưa bị cất bỏ đi, nó sẽ lần trở lại, lan rộng, và chắc chắn là giết chết
– và nếu chúng ta nghĩ khác đi, chúng ta
đang tự đùa giỡn với mình.
Phải đấy … như
tôi đã nói, trận đánh tại thành Giêricô là trận chiến đầu tiên trong cuộc chinh
phục xứ của dân Do thái. Các chiến dịch chủ yếu kéo dài trong 7 năm trời, với
dân Do thái sử dụng một chiến lược ‘phân chia và chinh phục’ — trước tiên cắt ngang
phần chính giữa xứ rồi chia nó ra phân nửa, tiếp đến chinh phục khu vực phía
Nam theo sau cuộc chinh phục phía Bắc. Các chiến dịch như thế cứ tiếp diễn
trong nhiều năm tháng.
Trong hầu hết
các trận đánh, dân Do thái đã sử dụng chiến tranh thông thường. Các bức tường
không sụp đổ ở từng thành phố mới mà họ đến đánh tại đó. Trong giới hạn ứng dụng
… trong chính đời sống tôi, tôi thấy rằng Đức Chúa Trời đôi khi làm ra các phép
lạ diệu kỳ — các phép lạ rất là khích lệ. Tuy nhiên, hầu hết thời gian ấy, chẳng
có một tiếng phán nào nghe thấy được từ trời và cũng chẳng có dấu lạ phép kỳ
nào trên đất. Hầu hết thời gian ấy, tôi chỉ cứ tiến tới phía trước — đọc Kinh
thánh, cầu nguyện, trụ lại trong mối tương giao, rồi tìm cách phục vụ. Các phép
lạ thật là kỳ diệu, nhưng bức tranh được tô vẽ trong sách Giôsuê không phải là
bức tranh nói tới các phép lạ liên tục đâu. Thay vì thế, đó là một bức tranh chủ
yếu nói tới việc cứ trung tín tiến tới đàng trước hết ngày nầy sang ngày khác, tiến
quân trên những con đường đầy bụi bặm — những con đường chắc chắn dẫn tới trận
chiến kế tiếp đầy khó khăn hơn, thường là một chiến trận bao gồm trận đánh tay đôi.
Sau bảy năm — sau khi trận chiến chính kết thúc — dân Do thái bắt đầu chuyển
vào chặng đường thứ ba.
Họ đã bước
vào xứ, họ đã chinh phục xứ, và giờ đây họ bắt đầu ổn định xứ. Họ bắt đầu phân
chia xứ giữa vòng các chi phái, để các chiến dịch kia lại cho những chi phái
khác lo liệu trong khu vực mà họ bóc thăm được.
Ổn Định
Xứ
Cụ thể thì
việc ổn định đất đai liên quan tới chỗ trả lời cho thắc mắc cơ bản: ai nhận phần
đất nào? Ai nhận mãnh đất nào? Ai nhận miếng đất nào, giao phần đất nào? Thắc mắc
nầy được trả lời chủ yếu qua một phương pháp ai cũng biết là bắt thăm. Chúng ta
không biết chính xác cách làm nầy là như thế nào, mặc dù có 70 lần nó được nhắc
tới trong Cựu Ước và 7 lần trong Tân Ước. Một số nhà giải kinh đã duy đoán rằng
việc bắt thăm có thể dính dáng tới việc ném gậy, đá, hay đồng tiền, và cách làm
đó tương tự với cách làm hiện đại của chúng ta về việc tung hứng một đồng xu. Cuối
cùng, ý tưởng nầy đạt tới một quyết định thật vô tư.
Thú vị thay,
mặc dù bắt thăm là vô tư, việc ấy chẳng phải là khách quan đâu. Như được nhắc tới
trong Châm ngôn 16:33: “Người
ta bẻ thăm trong vạt áo; Song sự nhất định do nơi Đức Giê-hô-va mà đến”. Đức Chúa Trời có mặt ở đàng sau sự
phân chia xứ. Kết quả chắc chắn đến từ Ngài. Đây là việc làm mà dân Do thái hiểu
rất rõ, mặc dù cách chi phái Épraim và Manase (hai con trai của Giôsép) đã than phiền về vùng đất đã bắt thăm cho
họ. Tương tự, ‘lá
thăm cuộc đời’ của chính chúng ta — sự bắt thăm nhất định đến từ Đức
Chúa Trời — có khi chỉ xảy ra trong sự vô tư, chỉ là ‘cọng rơm nay mắn’. Tuy nhiên, Kinh
thánh dạy rằng “sự nhất định do nơi Đức Giêhôva mà đến”.
Chẳng có một việc nào là may mắn mù quáng, cơ hội hay tình cờ cả. Cuối cùng, bàn
tay của Đức Chúa Trời dính dáng vào từng chi tiết, cả trong giới hạn cuộc sống
cá nhân và cuộc sống cộng đồng của chúng ta, mặc dù có khi chúng ta than phiền,
giống như dân Do thái đã than phiền. Một lần nữa, điều nầy có thể khó mà hiểu được,
đặc biệt khi lá thăm cuộc đời của chúng ta đầy dẫy đau khổ — đặc biệt đau khổ
do người khác gây ra — và hy vọng lần khác chúng ta sẽ xem xét đề tài rất quan
trọng nầy.
Đồng thời, mặc
dù bắt thăm được nhắc tới 7 lần trong Tân Ước, nó thôi không được nhắc tới nữa
sau Công Vụ các Sứ Đồ 2. Nó đình chỉ, không được nhắc tới sau sự giáng lâm của Đức
Thánh Linh. Nói khác đi, một khi các tín đồ có sự hiện diện ngự trong lòng của Đức
Thánh Linh, bắt thăm không còn được sử dụng như một phương pháp để đưa ra các
quyết định nữa. Kết quả, các trưởng lão của Hội thánh nầy không phải tung hứng đồng
xu khi quyết định các vấn đề (ngược lại với
những gì đôi khi xảy ra!).
Phần lưu ý
chính tôi muốn đưa ra về sự phân chia và ổn định xứ phải lo liệu với chi phái Lêvi
— là chi phái thầy tế lễ — họ chẳng nhận được một phần đất nào cả. Theo Phục
truyền luật lệ ký 18, Đức Giêhôva, chớ không phải đất đai, là phần của họ. Như
Môise đã truyền cho họ biết nhiều năm trước đó:
Phục truyền luật
lệ ký 18:1-2: “Những thầy tế lễ
về dòng Lê-vi, và cả chi phái Lê-vi không có phần, cũng không có sản nghiệp
chung với Y-sơ-ra-ên. Chúng sẽ hưởng những của tế lễ dùng lửa dâng cho Đức
Giê-hô-va, và cơ nghiệp Ngài, mà nuôi lấy mình. Vậy, chúng không có phần sản
nghiệp giữa anh em mình: Đức Giê-hô-va là cơ nghiệp của họ, y như Ngài đã phán”.
Rõ ràng,
chi phái Lêvi, họ được kê số là 23.000 người theo Dân số ký 26:62, họ cần một nơi
để sinh sống và lo liệu cho gia đình của họ. Kết quả là, họ được phép có 48 thành
— các thành rãi rác khắp cả xứ. Họ được phép cư trú trong các thành nầy và sử dụng
các đồng cỏ ở chung quanh, mặc dù họ không chính thức làm chủ chúng. Đã có sự
hiện diện của thầy tế lễ trong từng phần của xứ, họ dạy dỗ dân tộc bước theo những
đường lối của Đức Chúa Trời. Các đại biểu của Đức Chúa Trời cần phải sinh sống
trên khắp xứ sở, hầu cho từng người Do thái có thể nghe nói về Chúa.
Tương tự, là
Cơ đốc nhân, chúng ta là thầy tế lễ của hoàng gia (I Phierơ 2:9), là những người mà Đức Chúa Trời rãi ra như muối khắp
cả các thành phố, tiểu bang, và các nước trên địa cầu. Chúng ta chẳng có một sản
nghiệp nào lâu dài trong đời hiện tại nầy. Chúng ta là lữ khách và kiều dân. Tuy
nhiên, chúng ta có ơn kêu gọi cao cả làm thầy tế lễ dạy cho nhân loại biết mọi đường
lối của Đức Chúa Trời, tìm cách trở thành những cái bình mà Đức Chúa Trời có thể
tỏ Ngài ra cho một thế gian bị hư mất, tan vỡ, và đau thương. Đấy là sự kêu gọi
của chúng ta. Đấy là phần của chúng ta.
Khi chúng
ta bắt đầu ổn định loại đời sống mà Đức Chúa Trời đã kêu gọi chúng ta phải sống,
chúng ta sẽ thấy Đức Chúa Trời ngày càng sử dụng chúng ta để phục vụ cho những
người ở chung quanh chúng ta. Ngài vận hành trong chúng ta, những dự tính của
Ngài cũng đang thể hiện qua chúng ta. Khi chúng ta ngày càng ổn định hơn trong
mối quan hệ của chúng ta với Chúa — khi chúng ta ngày càng trưởng thành hơn
trong đức tin của chúng ta – chúng ta sẽ khám phá ra rằng chúng ta ít bị bản
ngã chiếm hữu và tha nhân càng chiếm hữu chúng ta nhiều hơn. Chúng ta sẽ sống
không phải với bản ngã của mình nữa, thay vì thế thích làm phước cho những ai Đức
Chúa Trời đưa đến trong đời sống của chúng ta.
Hơn nữa,
trong giới hạn ứng dụng cá nhân, sẽ có một sự hiện diện tin kính trong từng
lãnh vực — trong từng phương diện — của đời sống cá nhân chúng ta. Thí dụ, nếu
chúng ta nghĩ đến các giới hạn đã được phân định đâu đó rồi, một sự phân chia
cuộc sống chúng ta phải làm với gia đình, với công ăn việc làm, với sự tái tạo,
với bạn bè và hàng xóm, và cứ thế. Sẽ có một sự hiện diện tin kính trong mỗi một
lãnh vực nầy. Đức Chúa Trời sẽ hiện diện trong sinh hoạt gia đình của chúng ta
và hiện diện trong sở làm của chúng ta nữa. Đức Chúa Trời sẽ hiện diện trong đời
sống tái tạo của chúng ta và hiện diện trong sinh hoạt cộng đồng của chúng ta. Buồn
thay, một số Cơ đốc nhân dường như tưởng tượng rằng Chúa Jêsus chỉ hiện diện
trong ‘khu vực
nhà thờ’ chớ không có ở các nơi khác. Với Israel, Đức Chúa Trời muốn
được làm chứng cho — muốn được hiện diện — trên khắp cả xứ, và Ngài muốn được
thể hiện ra trên khắp cả đời sống của chúng ta nữa.
Giờ đây, giữa
vòng 48 thành của người Lêvi, có 6 thành phố đặc biệt mà ai cũng phải nhìn biết
là thành ẩn náu. Các thành ẩn náu nầy được đặt trên lãnh thổ của dân Do thái
bên bờ Đông sông Giôđanh — một thành ở phía Bắc, một thành ở giữa, và một thành
ở phía Nam. Ba thành ẩn náu nầy được đặt ở bờ Tây sông Giôđanh — một thành ở
phía bắc, một ở giữa, và một thành ở phía Nam. Thực vậy, các thành ẩn náu được
sắp đặt theo một thể thức như vậy, ít nhất là có một thành ẩn náu trong vòng một
ngày đường cho bất kỳ chỗ nào trong xứ Israel (một quốc gia có kích cỡ của bang Maryland).
Giôsuê 20:1-6:
“Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê rằng: Hãy
truyền cho dân Y-sơ-ra-ên mà rằng: Hãy lập các thành ẩn náu, mà ta đã cậy
Môi-se phán cùng các ngươi, hầu cho kẻ sát nhân vì bất ý giết ai có thế trốn đó
được; các thành ấy dùng cho các ngươi ẩn náu khỏi kẻ báo thù huyết. Kẻ sát nhân
sẽ chạy trốn đến một của các thành này, đứng nơi cửa thành, thuật sự tình cho
các trưởng lão của thành ấy nghe. Các trưởng lão sẽ tiếp dẫn người vào trong
thành, chỉ định cho một chỗ ở tại giữa mình. Nếu kẻ báo thù huyết đuổi theo,
các trưởng lão chớ nộp kẻ sát nhân vào tay người; vì kẻ ấy giết người lân cận
mình, không có ý muốn, và trước khi vốn không ghét người. Người phải ở trong
thành ấy cho đến chừng chịu đoán xét trước mặt hội chúng, cho đến chừng thầy tế
lễ thượng phẩm đang chức qua đời. Kế đó, kẻ sát nhân sẽ trở về vào thành và nhà
mình, tức là thành mà mình đã trốn khỏi”.
Về cơ bản, quan niệm là như vầy đây: trong
xứ Israel, khi một tội phạm phạm tội, chẳng có một lực lượng cảnh sát hay FBI nào
lần theo họ rồi đem họ ra xử đâu. Thay vì thế, các cá nhân gia đình phải tìm kiếm
tội phạm rồi thi hành công lý. Đây là phần trách nhiệm của những gì được biết
là ‘kẻ báo thù
huyết’ — người bà con có quyền chuộc (một quan niệm chúng ta sẽ học hỏi nhiều khi chúng ta đến với sách Rutơ).
Mục tiêu là đem lại công lý và tiếp trợ cho những người bà con đang trong cảnh
có cần.
Tuy nhiên, vấn
đề là, nếu ai đó tình cờ hay không cố ý bị giết chết, những người bà con nổi giận
dữ, được cầm đầu bởi kẻ báo thù huyết, sẽ lần theo tên sát nhân rồi hành quyết
hắn (nam hay nữ), mặc dù chẳng có tội
ác nào họ phạm phải. Trong Phục truyền luật lệ ký 19:5-7, có một trường hợp một
người tình cờ chết đi khi lưỡi rìu sút cán. Trong Dân số ký 35:22-25, có một trường
hợp một người bị xô đẩy chết, mặc dù chẳng cố ý giết. Những loại giết chóc tình
cờ hay không hữu ý nầy không đáng bị tử hình, nhưng kẻ báo thù huyết cứ tìm
cách để giết người kia.
Trong các
trường hợp như thế, cá nhân nào gây ra sự chết được đề nghị trốn vào một trong
các thành ẩn náu — ở đó người ấy (nam hay
nữ) sẽ được bảo hộ tránh kẻ báo thù huyết và các thành viên trong gia đình đang
phẫn nộ. Cá nhân đó cứ phải ở lại trong thành cho tới chừng nào sự chết của thầy
tế lễ thượng phẩm. Có lẽ thầy tế lễ thượng phẩm sẽ chết một ngày sau khi người
nầy đến trong thành ấy; có lẽ thầy tế lễ thượng phẩm sẽ không chết trong 30 năm
nữa. Hậu quả cho việc gây ra cái chết hoàn toàn phải để lại cho Chúa — để lại
cho Đấng vốn biết rõ lúc nào thầy tế lễ thượng phẩm sẽ qua đời.
Tất nhiên
là có một thương lượng quan trọng có thể nhắc tới sự việc nầy. Tuy nhiên, trong
giới hạn ứng dụng cá nhân — giới hạn ổn định trong loại đời sống mà Đức Chúa Trời
đã ban cho chúng ta — cho phép tôi đưa ra một số lưu ý. Thứ nhứt, khi chúng ta ổn
định xứ — như chúng ta ổn định loại sự sống mà Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta
phải sống—chúng ta cần phải hiểu rằng chính mình Đức Chúa Trời là thành ẩn náu
của chúng ta. Như đã được chỉ ra trong Thi thiên 46: “Đức
Chúa Trời là nơi nương náu và sức lực của chúng tôi, Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn
gian truân” (Thi thiên 46:1). Khi chúng
ta ở trong cảnh rối rắm, chúng ta cần phải chạy đến Đức Chúa Trời. Chúng ta cần
phải chạy tới gặp Chúa Jêsus. Ngài là Đấng sẽ tiếp trợ cho chúng ta với sự an ninh
và giúp đỡ mà chúng ta đang có cần. Quả thực, theo một ý nghĩa, tôi muốn nói rằng
chúng ta luôn luôn gặp rối rắm không cách nầy cũng cách khác (mặc dù đôi khi chúng ta phải hình dung như
vậy!). Vấn đề cần phải nói … ở cốt lõi sự sống của chúng ta, chúng ta phải
luôn luôn chạy đến Đức Chúa Trời, nhìn biết rằng Ngài là thành ẩn náu và là quê
hương thật của chúng ta.
Thứ hai, Chúa
Jêsus là thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta (Hêbơrơ 4:14) — một thầy tế lễ thượng phẩm không bao giờ chết. Một
khi những người kia chạy vào trong thành ẩn náu, họ cần phải cư ngụ ở đó cho tới
chừng thầy tế lễ thượng phẩm qua đời, và một khi thầy tế lễ thượng phẩm của
chúng ta không bao giờ chết, chúng ta sẽ thấy bản thân mình là ‘những kẻ kiều ngụ
thường trực trong thành ẩn náu’. Một khi chúng ta chạy đến Đấng Christ,
chúng ta sẽ không chịu rời đi nữa đâu. Quê hương lâu dài và đời đời của chúng
ta đang ở trong bốn bức tường bảo hộ của thành Đức Chúa Trời, bên trong bốn bức
tường bảo hộ của mối quan hệ với Ngài.
Và thứ ba, Chúa
Jêsus cũng là người bà con có quyền chuộc của chúng ta, Đấng báo thù huyết của
chúng ta. Các thành ẩn náu được thiết lập để bảo hộ kẻ vô tội, chớ không phải bảo
hộ cho kẻ phạm tội. Chúng được thiết lập để cứu kẻ vô tội ra khỏi cơn thạnh nộ
của kẻ báo thù huyết. Tuy nhiên, là Cơ đốc nhân, cái mỉa mai — mỉa mai phước hạnh
— ấy là kẻ báo thù huyết đã đổ chính huyết Ngài ra để cho chúng ta được tha tội.
Chúa Jêsus, là người bà con có quyền chuộc của chúng ta, đã chịu chết để chúng
ta được cứu chuộc. Chúng ta là những kẻ đã đặt đức tin mình nơi Đấng Christ có
thể bước vào thành ẩn náu như những con người thực sự vô tội. Như có chép trong
Rôma 5:9: “Huống chi nay chúng ta đã
nhờ huyết Ngài được xưng công bình, thì sẽ nhờ Ngài được cứu khỏi cơn thạnh nộ
là dường nào!”
Chúa Jêsus
là thành ẩn náu của chúng ta, Chúa Jêsus là thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta,
và Chúa Jêsus là người bà con có quyền chuộc của chúng ta. Nếu chúng ta bắt đầu
nắm bắt được những vụ việc nầy, thế thì chúng ta sẽ bắt đầu hiểu ổn định xứ sở
có ý nghĩa gì rồi. Chúng ta sẽ bắt đầu hiểu đã tìm được quê hương thật có ý nghĩa
như thế nào rồi. Chúng ta sẽ bắt đầu hiểu rõ ‘sống trong nhà’ thực sự chỉ đến từ
nhận thức sâu sắc về sự sống bắt nguồn từ mối quan hệ với Đấng Tạo Hoá của
chúng ta, là nguồn của mọi sự sống. Như có chép trong Thi thiên 90:1: “Lạy Chúa, từ đời nầy qua đời kia Chúa là nơi
ở của chúng tôi”.
Là Cơ đốc
nhân, chúng ta khao khát về thiên đàng. Chúng ta khao khát nơi ở đời đời của
chúng ta — là nơi mà đang sắm sẵn cho chúng ta và ở đó chúng ta có thể ở với
Ngài cho đến đời đời. Chúng ta nhìn thấy trong lúc bây giờ trong một tấm gương
cách mập mờ, nhưng về sau nầy sẽ mặt đối mặt. Tuy nhiên, ngay cả lúc bây giờ, trong
đời hiện tại nầy, Đấng Christ đã đến rồi để ngự vào lòng của chúng ta bởi đức
tin. Chúng ta từng nhìn biết điều nầy — chúng ta từng hiểu rõ quê hương là nơi
tấm lòng đặt vào và Đấng Christ đã tạo ra quê hương ấy trong tấm lòng của chúng
ta rồi — chúng ta sẽ chẳng bao giờ thấy bản ngã mình hát lên những lời: “đôi khi tôi tự hỏi
sao mình không về nhà lại”. Chúng ta sẽ bắt đầu nhận ra chúng ta đã về nhà rồi — rồi
trong một mối quan hệ với Đấng yêu thương chúng ta — và chúng ta chỉ chờ đợi một
sự hiểu biết đầy đủ hơn và phong phú hơn những gì đã nghe nói đến.
Bài
Diễn Văn Từ Biệt Của Giôsuê
Sau khi tường
thuật lại thể nào dân Do thái đã bước vào, đã chinh phục và đã ổn định trong Đất
Hứa, hai chương sau cùng của sách Giôsuê — các chương 23 và 24 — là bài diễn văn
từ biệt của Giôsuê. Chúng là lời lẽ sau cùng của Giôsuê trước khi ông qua đời ở
tuổi 110. Lời lẽ một phần là lời khuyên bảo và một phần là lời cảnh cáo. Ông
khuyên dân Do thái phải liên tục bước theo Đức Chúa Trời, và ông cảnh cáo họ đừng
xây khỏi Đức Chúa Trời. Họ đã ổn định trong xứ, nhưng đấy chưa phải là phần kết
của câu chuyện đâu. Họ cần phải tiếp tục tiến lên phía trước trong đức tin.
Không chút
thắc mắc, những câu nói ai cũng quen biết từ bài diễn văn của Giôsuê là đây:
Giôsuê 24:15:
“Nếu chẳng thích cho các ngươi phục sự Đức
Giê-hô-va, thì ngày nay hãy chọn ai mà mình muốn phục sự, hoặc các thần mà tổ
phụ các ngươi đã hầu việc bên kia sông, hoặc các thần dân A-mô-rít trong xứ mà
các ngươi ở; nhưng ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giê-hô-va”.
Như đối với
tôi và gia đình của tôi, chúng tôi sẽ hầu việc Đức GIÊHÔVA.
Đấy là sự lựa chọn mà Giôsuê đã đặt trước mặt dân Do thái, và đấy là sự lựa chọn
mà Đức Chúa Trời đang đặt trước mặt mỗi một người chúng ta. Có phải bạn và tôi —
có phải chúng ta — sẽ hầu việc Đức Chúa Trời hay không hầu việc? Có phải chúng
ta sẽ tiếp tục tiến tới đàng trước trong đức tin hay bắt đầu lui đi trong sợ
hãi? Có phải chúng ta sẽ tiếp tục hầu việc Đức Chúa Trời là Đấng sẽ ban cho
chúng ta mọi sự mà chúng ta có cần hay có phải chúng ta sẽ bắt đầu phục vụ các
thần của đời nầy — các thần có thể chẳng ban cho được gì hay bất kỳ một giá trị
nào lâu dài hết? Nếu chúng ta hầu việc Đức Chúa Trời, khi ấy sẽ có những gã giềnh
giàng và các thành trì kiên cố; sẽ có những trận chiến và nhiều trở ngại. Cảm tạ
Chúa, cũng sẽ có những đắc thắng lớn lao và ý thức về việc bước vào, chinh phục
và ổn định Đất Hứa — một đất đượm sữa và mật. Tuy nhiên, nếu chúng ta chọn phục
vụ các thần khác, việc chọn lựa ấy chỉ kết thúc trong thảm hoạ mà thôi. Như
Phaolô nói cho chúng ta biết trong sách Galati: “Chớ
hề dối mình; Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu; vì ai gieo giống chi, lại gặt
giống ấy. Kẻ gieo cho xác thịt, sẽ bởi xác thịt mà gặt sự hư nát” (Galati
6:7-8a).
Buồn thay, như
chúng ta sẽ thấy tuần tới khi Scott dạy về sách Các Quan Xét, dân Do thái đã lần
lại dấu vết xưa. Họ thôi không hầu việc Đức Chúa Trời nữa và bắt đầu ‘gặt lấy theo bản
chất tội lỗi của họ’. Trong vòng một thế hệ, kết quả là đầy tai vạ. Nếu
bạn muốn nhìn thấy chính xác điều chi câu chuyện mở ra, phải … bạn sẽ cần đến
nhóm vào Chúa nhật kế đây!
Chúng ta
hãy cầu nguyện. Lạy Đức Chúa Trời, nguyện Ngài giúp cho chúng con hết thảy đều
tiến tới trước nhơn đức tin — trong đời sống cá nhân, trong gia đình, trong hội
chúng, và là một phần trong thân thể rộng lớn của Đấng Christ. Xin giúp chúng
con bước vào các lãnh vực mà Ngài đang kêu chúng con phải bước vào, xin giúp
cho chúng con chinh phục những gã giềnh giàng và các thành trì kiên cố kia mà
Ngài đang kêu gọi chúng con phải chinh phục, và xin giúp chúng con ổn định loại
đời sống mà Ngài kêu gọi chúng con phải sinh sống. Xin giúp chúng con sống chơn
thật trong gia đình và ổn định trong mối quan hệ với Ngài, với lòng nhận biết rằng
Ngài là Đấng duy nhứt có thể ban cho chúng con sự sống và quê hương mà chúng ta
luôn khát khao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét