Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

Luca 17:11-19: "Còn Chín Người Kia Ở Đâu?"



Còn Chín Người Kia Ở Đâu?

 Luca 17:11-19

            Đúng là một cống hiến cho y khoa hiện đại khi phần lớn chúng ta đều biết rất ít về căn bịnh được gọi là bịnh phung. Hầu hết chúng ta đều chưa hề nhìn thấy một người phung. Chúng ta chỉ biết những gì chúng ta đọc trong Kinh thánh mà thôi.
            Nếu chúng ta sống trong thời buổi đó, chúng ta sẽ biết được nhiều hơn. Trong các thời kỳ Kinh thánh, đấy chính là căn bịnh gây lo sợ nhiều nhất trong thế gian. Căn bịnh ấy gây chết chóc, không thể chữa được và vô vọng. Vì vậy, nhiều người thời xưa đã e sợ nó đến nỗi bất kỳ ai bị nghi nhiễm căn bịnh nầy sẽ bị trục xuất ra khỏi xã hội ngay. Trong các tác phẩm của hàng rabi, chúng ta thấy những phương cứu chữa cho nhiều loại căn bịnh khác nhau. Song chẳng có chép gì về bịnh phung. Các rabi nói rằng chữa trị bịnh phung giống như làm cho kẻ chết sống lại vậy. 

I. Căn bịnh đáng ghê tởm

            Ngày nay, bịnh phung được gọi là Bịnh Hansen, sau khi  vị Bác sĩ người Na-uy vào năm 1873 đã khám phá ra vi khuẫn gây bệnh. Chắc chắn là có vài loại bịnh phung, và chúng ta ngày nay biết rõ Kinh thánh dịch “phung” chắc chắn bao gồm một loạt bịnh về da, đó là lý do tại sao một số bản dịch hiện đại sử dụng một cụm từ đại loại như “bịnh lồi da”.
            Loại phung tệ hại nhất có khuôn mẫu chung chung như sau:
+ Thứ nhứt, một mảng da bị đổi màu. Có thể xảy ra ở chân mày, mũi, tai, gò má hay cằm.
+ Thứ hai, mảng da nầy chuyển thành màu trắng hay màu hồng và bắt đầu lan rộng theo các hướng thật nhanh chóng.
+ Thứ ba, căn bịnh lan sang các bộ phận nội tạng khác. Chân mày có thể biến mất và nhiều khối u mềm xuất hiện trên cơ thể.
+ Thứ tư, mô bắt đầu tan rã khiến cho tay chơn trở nên biến dạng.
+ Thứ năm, các dây thần kinh của cơ thể bị tiêu hủy. Đây là chặng nguy kịch của bịnh phung vì như thế có nghĩa là bịnh nhân sẽ mất đi cảm xúc đau đớn. Vì thế, một con chuột đến nhai mất một ngón tay lúc ban đêm và người bịnh không hề hay biết. Hoặc họ sẽ chạm vào ngọn lửa mà chẳng thấy đau đớn chi cả.
            Người thời xưa e sợ căn bệnh ấy vì nó tạo ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, vì nó lan nhiễm, và vì con người không thể chữa trị được căn bịnh ấy.

Hãy coi chừng tóc trắng

            Vì mọi lý do đó, Lêvi ký 13-14 cung ứng những phần dạy dỗ đặc biệt về sự chẫn đoán và trị liệu cho bịnh phung. Về mặt cơ bản, ở đây nói rằng bất kỳ chỗ sưng tấy nào hay nhiễm trùng da phải được thầy tế lễ khán ngay lập tức. Ông phải tra xét chỗ sưng, da ở chung quanh và màu tóc trong khu vực bị nhiễm. Tóc trắng bị coi là một dấu hiệu nguy hiểm. Người bị nhiễm sẽ bị cách ly trong 7 ngày. Vào ngày cuối của 7 ngày đó, nếu không còn sự lây nhiễm nữa, người ấy sẽ được xã hội tái công nhận. Nếu không, thì người bịnh được chẫn đoán đang mắc bịnh phung, bị trục xuất ra khỏi xã hội trong thời gian người bị nhiễm. Đây là cách Lêvi ký 13:45-46 đặt ra vấn đề:
            Vả, người đã bị vít phung rồi phải xé quần áo, đầu trần, che râu lại la rằng: Ô-uế! Ô-uế! Trọn lúc nào người có vít, thì sẽ bị ô uế, phải ở một mình ngoài trại quân.
            Alfred Edersheim giải thích sự trục xuất có ý nghĩa như thế nầy đối với người phung:
            Khi người phung đi ngang qua, xé áo quần mình, đầu để trần và phần thấp nhất của khuôn mặt và môi trên phải được che lại, giống như một người sắp chết lo báo lễ tang của chính mình. Lời lẽ than khóc: “Ô uế, ô uế” mà người thốt ra, công bố rằng ô uế đối với cả chết và sống về mặt đạo đức (The Life and Times of Jesus the Messiah).
            Với mọi chi tiết đó, chúng ta đến với câu nói ở Luca 17:11-12 rằng khi Chúa Jêsus đang đến gần đường biên giới của xứ Samaria và Galilê, Ngài đã gặp một nhóm người phung. Kinh thánh chép rằng Ngài đang lên thành Jerusalem trong lần cuối cùng. Cái chết đang ở trong tâm trí của Ngài. Chúng ta không biết chính xác cuộc gặp gỡ nầy diễn ra ở đâu. Bạn không thể tìm gặp thị trấn nhỏ nầy trên tấm bản đồ. Đây là một thị trấn đâu đó ở phía Nam thành Naxarét và thành Nain và Núi Thabô và đâu đó phía bắc Sikha. Chúa Jêsus cùng các môn đồ Ngài đang đi về phía Đông sông Giôđanh và khu vực xứ Bêrê. Nếu bạn đã viếng qua Đất Thánh, bạn biết rõ ngày nay khu vực ấy không có thành thị lớn đâu. Đây là một khu vực vắng vẻ, đặc biệt là nơi bạn mong muốn gặp được cộng đồng người phung.
            Chẳng có gì phải ngạc nhiên khi Chúa Jêsus gặp những con người bất hạnh nầy giữa xứ Galilê và xứ Samari. Galilê là căn cứ địa quê nhà của Chúa Jêsus. Ngài lớn lên ở đó. Ngài có gia đình và nhiều bạn hữu thời niên thiếu ở đó. Ngài lập trụ sở tại thành Cabênaum trên bờ biển Galilê. Phần lớn các phép lạ và nhiều sự dạy dỗ của Ngài đã được làm ra ở xứ  Galilê. Đây là vùng đất mà Ngài rất được lòng người nhất.
            Nhưng thành Samari là một vấn đề khác. Những người Do thái nhơn đức đã lẫn tránh thành Samari nếu họ có thể. Câu chuyện đi ngược về mấy trăm năm đến cuộc Phu Tù cho người Asiri bắt đầu vào năm 722TC. Một số người Do thái đã kết hôn  chéo với người Asiri và đã trở thành – trong con mắt của đồng bào họ – lai giống và phản bội. Trải qua nhiều thế kỷ, người Samari đã trở thành một dân tạp với một tôn giáo bị pha trộn.
            Người Do thái ghét người Samari, và người Samari đã đáp lại y như thế.

II. Một phép lạ sâu sắc

            Và chính ở đây, ngay đường biên giới giữa xứ Galilê và xứ Samari, ở giữa tinh thần thù nghịch của người Do thái và người Samari, Chúa Jêsus gặp gỡ 10 người phung. Họ có thể đi đâu khác được nữa chứ? Người Do thái không ưa họ; người Samari cũng thế.
            Các câu 12-13 cung ứng cho chúng ta nghe như là một bằng chứng theo kiểu mắt thấy vậy:
            Nhằm khi vào làng kia, có mười người phung đến đón rước Ngài, đứng đằng xa,  lên tiếng rằng: Lạy Jêsus, lạy Thầy, xin thương xót chúng tôi cùng!
            Đây là khu vực sinh sống của người phung hợp với số phận không may thường nhật của họ. Bản sắc duy nhứt của họ khi cùng chung sống với nhau là căn bệnh trầm kha đã xua đuổi họ ra sống ngoài vòng xã hội. Từng chi tiết đều là sự thực cả. Khi Chúa Jêsus vào trong làng, những người nầy đứng xa xa kêu la xin Ngài thương xót  cùng. Làm sao họ nhận biết Ngài là ai chứ? Không nghi ngờ chi nữa, họ đã nghe nhiều tiếng đồn đại trên khắp vùng nông thôn trơ trụi ấy — "Người nầy có thể chữa lành cho người phung”. Chắc chắn là họ đã bàn bạc sự ấy và rồi dự tính cứ như thế. Ngay cả nếu Ngài có thể làm một việc như vậy, biết đâu đấy lại là những cơ hội khi Ngài đến với ngôi làng của họ?
            Nhưng giờ đây lời đồn cứ lan đi — "Ngài đang có mặt ở đây” “Ai đang ở đây chứ?” “Chúa Jêsus người Naxarét” “Tôi không tin việc đó” “Thật đấy. Ngài đang có mặt ở đây” “Ông có nghĩ là Ngài sẽ chữa lành cho chúng ta không?” “Tôi không biết. Chúng ta hãy chờ coi”.
            Họ còn đứng đó, ca đoàn rách rưới nhất trong xứ Israel, 10 người phung đang kêu gào xin Chúa Jêsus thương xót  cho. Không một âm thanh nào đáng thương hơn đã lọt vào hai lỗ tai của Chúa chúng ta. “Xin thương xót  chúng tôi cùng. Xin thương xót  chúng tôi cùng”, tiếng kêu gào ấy đã toát ra từ những môi miệng đã nhìn thấy quá ít sự thương xót và quá nhiều sự xét đoán.

Khi họ đang đi, họ được chữa lành

            Chúa Jêsus sẽ làm gì chứ? Liệu Ngài có chữa lành cho họ ngay khi ấy và ở đó chăng? Sự ấy chắc chắn nằm trong quyền phép của Ngài và nhất định đấy là điều mà mấy người phung đã trông mong. Thay vì thế, Chúa Jêsus đã phán một câu mà thoạt nghe rất ngạc nhiên đối với chúng ta.
            Khi Ngài nhìn thấy họ, Ngài phán cùng họ: Hãy đi, tỏ mình cùng thầy tế lễ (14). Ở cái nhìn đầu tiên, bạn sẽ nghĩ rằng Chúa Jêsus thiệt đang xua họ đi. Thậm chí bạn có thể kết luận rằng Ngài chẳng có dự tính chữa lành cho họ chi hết. Và nếu bạn đã đến với phần kết luận đó, bạn sẽ suy ra rằng Chúa Jêsus có ý định gây ấn tượng trên họ so với tình trạng vô vọng trong hoàn cảnh của họ. Song mọi luận suy ấy đều không chính xác. Thực ra, Chúa Jêsus đã dự tính chữa lành cho họ và (điều nầy rất quan trọng) Ngài đã dự tính làm việc ấy trong sự tuân giữ mọi đòi hỏi của luật pháp Môise. Lêvi ký 14 nói rõ rằng thầy tế lễ phải xác định bất kỳ sự “lành” nào từ bịnh phung. ("Lành” ở trong dấu ngoặc kép vì trong thực tế chẳng có ai từng được “lành” về chứng bịnh phung. Sau nhiều năm trời (15-20 năm trong phần lớn các trường hợp) sự lan nhiễm đã không còn nữa và người bệnh — đang mang dấu ấn tàn phá của căn bịnh — sẽ tái hòa nhập lại với xã hội). Nếu Chúa Jêsus không bảo mấy người phung đến khán ở thầy tế lễ, không một người nào sẽ dám tin nơi phép lạ thực sự đã xảy ra.
            Song đấy chẳng phải là toàn bộ câu chuyện. Phần sau cùng của câu 14 chép rằng Họ đang đi thì phung lành hết thảy”. Họ đã được chữa lành khi họ ra đi. Không phải trước khi đi đâu. Không phải sau khi nữa. Nói như thế có nghĩa là khi họ rời đi để đến gặp thầy tế lễ, họ vẫn còn chứng bịnh phung.
            Bạn nghĩ họ cảm nhận thế nào khi Chúa Jêsus phán: Hãy đi, tỏ mình cùng thầy tế lễ?” Đi tỏ cái gì cho thầy tế lễ chứ? Họ vẫn còn là những người phung. Họ chẳng có cái gì để tỏ ra rằng thầy tế lễ sẽ muốn nhìn thấy. Thực vậy, việc sau cùng thầy tế lễ mong muốn thấy là 10 người phung bốc mùi, te tua, biến dạng, khốn khổ. Tôi tự hỏi không biết có ai nói: “Bận tâm mà chi chứ?” Rốt lại: “Từng bị phung, luôn luôn là người phung”. Đã có nhiều vết loét khắp chỗ, hai cánh tay và mấy ngón tay biến dạng do bị sinh vật gậm nhấm. Bạn có thể ngửi thấy người bịnh cách ¼ dặm đường.
            Họ cứ đi, cứ hồ nghi, tốp người đau khổ lộn xộn nầy cứ đi đến gặp thầy tế lễ.
            Họ bước một bước … và họ vẫn còn là những người phung.
            Họ bước hai bước … và chẳng có việc gì xảy ra.
            Họ bước bước thứ ba … và bịnh phung bám chặt lấy tứ chi của họ.
            Nhưng ở bước thứ tư … có việc gì đó kỳ diệu, việc gì đó khó tin, việc gì đó mà họ từng dám mơ ước, đã xảy ra. Với bước thứ tư ấy, họ đã được chữa lành.
            Ngay lập tức. Thật lạ lùng. Hết thảy 10 người ngay tức khắc.

Sự rủa sả của tôn giáo thụ động

            Họ đã được lành khi họ chịu bước đi. Không phải trước. Không phải sau. Mà trong hành động bước đi, họ đã được chữa lành. Tại sao chứ? Vì hành động bước đi chính là hành động của đức tin. Họ cảm nhận ra sao thì không phải là vấn đề. Đức Chúa Trời đã tôn cao việc bước đi của họ bất chấp mọi hồ nghi của họ.
            Điều đó đưa chúng ta đến với một sự hiểu biết sâu sắc hơn. Đức tin của chúng ta dời núi khi đức tin cảm động chúng ta. Khi Chúa Jêsus phán: “Hãy đi tỏ mình cùng thầy tế lễ” thực sự Ngài đang phán: “Hãy hành động giống như thể các ngươi đã được chữa lành rồi vậy”. Đúng là một lời khuyên long trọng đấy. Có nhiều lần chúng ta cầu nguyện, rồi cầu nguyện mà chẳng có một việc gì dường xảy ra. Nhưng khi đức tin chúng ta – dù nó có thể lay động – sau cùng cảm động chúng ta phải hành động, Đức Chúa Trời tôn cao đức tin ấy và câu trả lời bắt đầu tới đến. Tại sao chứ? Vì đức tin là tin theo cộng với sự vô tín rồi hành động theo phần tin tưởng.
            Có nhiều người trong chúng ta bị bẫy bởi sự rủa sả của tôn giáo thụ động. Bạn biết đấy là gì rồi, có phải không? Đó là quan điểm cho rằng nói tin cậy Đức Chúa Trời có nghĩa là để cho Ngài làm hết mọi sự. Vì vậy chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa, con cần tiền bạc”, nhưng chúng ta từ chối không chịu bước ra rồi tìm kiếm một việc làm. Chúng ta cầu xin: “Lạy Chúa, xin giúp con giảm cân” nhưng chúng ta từ chối không chịu tập luyện. Tôn giáo thụ động sử dụng Đức Chúa Trời như một lời cáo lỗi chẳng làm một việc gì hết.
            Hãy nghe đây, nếu tên của bạn là Nôê và Đức Chúa Trời bảo bạn trời sắp mưa, thì cầu xin cho có một chiếc tàu là đúng khi bạn cầu nguyện, song hãy đi ra rồi đốn một số gỗ gôphe đi.
            Nếu tên của bạn là David, và bạn thấy mình đang ở trong trũng đối diện với Gôliát, thì cầu nguyện xin chiến thắng là đúng, nhưng khi bạn cầu nguyện, hãy nhặt lên mấy hòn đá, tra chúng vào cái trành rồi nhắm ngay vào cái trán của Gôliát.
            Tin tưởng nơi Đức Chúa Trời không tương xứng với chỗ không làm gì hết. Hãy nhớ, mười người phung đã được chữa lành khi họ bước đi. Đức tin của chúng ta dời núi khi đức tin cảm động chúng ta bước đi.

III. Một mặc khải gây sốc

            Vậy, mười người phung đã được chữa lành. Đây là một phép lạ kỳ diệu, nhưng đấy chưa phải là phần cuối cùng của câu chuyện. Thực vậy, thậm chí đấy chưa phải là trọng tâm của câu chuyện nữa là. Phép lạ khác sắp sửa xảy ra.
            “Có một người trong bọn họ thấy mình đã được sạch, bèn trở lại, lớn tiếng khen ngợi Đức Chúa Trời; lại đến sấp mặt xuống đất, nơi chân Đức Chúa Jêsus, mà tạ ơn Ngài. Vả, người đó là người Sa-ma-ri (15-16).
            Bạn biết rõ câu chuyện rồi. Mười người đã được lành và chỉ có một người quay trở lại để dâng lên lời cảm tạ. Luca nói người nầy sấp mặt xuống đất trước mặt Chúa. Ông ta có cái điều mà các anh chị em thuộc hệ phái Ngũ Tuần gọi là “Shouting Session”. Và tại sao không chứ? Ông ta đã được chữa lành bịnh phung. Trong hai mươi năm, người là kẻ phung sinh sống trong một nơi thuộc vùng sâu vùng xa như thế nầy, bị cách ly đối với gia đình, bị bạn bè quên lãng, bị cắt đứt đối với chính dân tộc mình. Thình lình, căn bịnh biến mất và tứ chi bị vặn cong, mấy ngón tay xoắn lại, cơ bắp bị teo hết cũng biến mất theo với nó. Trong một thời gian ngắn có cần để kể lại một mẫu chuyện, chứng bịnh và mọi triệu chứng xấu xí bẩn thỉu của nó đã bị dời ra khỏi thân thể của ông ta, chẳng để lại một dấu vết nào ở đàng sau chúng. Ông ta giơ cao hai cánh tay mình lên phía trên đầu rồi nhặt lên một hòn đá xem coi ông ta sẽ ném nó đi được bao xa. Ông ta bắt đầu bước đi và rồi chạy và sau cùng nhảy tung lên trên khoảng không kia.
            Ông ta đã được lành trở lại rồi. Khỏe mạnh lại rồi. Sạch sẽ lại rồi. Không còn là kẻ bị ruồng bỏ nữa.
            Ông ta gào to lên, chẳng có gì phải kinh ngạc hết. Tôi cũng sẽ la lên nữa đấy.
            Khi Luca nói thêm: Vả, người đó là người Sa-ma-ri, cú sốc có ngay. Chúng ta có thể đọc câu ấy theo cách nầy: “Hãy suy nghĩ một chút xem. Một người Samari”.
            Hãy nhớ, Chúa Jêsus là người Do thái và người Do thái nghĩ người Samari là những kẻ phản bội, dân tạp. Để làm cho vấn đề ra tệ hại hơn, người ấy là một người phung Samari. Đối với người Do thái, không nên nhìn vào một sự kết hợp gớm ghiếc. Ông ta xuất thân từ một dòng giống sai trật, ông ta có thứ tôn giáo không đúng, và ông ta mắc phải một chứng bịnh tệ hại nhất khả thi. Trong các vấn đề tôn giáo, người Samari nầy hầu như chẳng biết gì hết và thứ ông ta biết đều là sai trật cả đấy thôi! Nhưng ông ta đã nhìn biết Chúa Jêsus chữa lành cho ông ta và ông ta vốn biết đủ để dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời. Câu nói ấy là lý do cho thấy tại sao câu chuyện nầy lại hiện hữu trong Kinh thánh.
            Cho phép tôi đi một bước xa hơn. Luca không nói một cách trực tiếp như thế, nhưng tôi nghĩ ông ám chỉ rằng chín người kia đều là người Do thái. Nếu đấy là thực, thế thì cái điều câu chuyện nầy thực sự muốn nói tới, ấy là những kẻ đáng phải biết ơn nhất đều không tỏ ra sự ấy. Và người duy nhứt lẽ ra không quay trở lại thì đã quay trở lại.
            Toàn bộ câu chuyện nầy phác họa cuộc sống như nó vốn có thực vậy. Thứ nhứt, đây là bức tranh nói tới ân điển dư dật của Đức Chúa Trời. Đây là một sự chữa bệnh với quy mô lớn – cả một bịnh viện được chữa lành với chỉ một lời nói. Mười người một lúc. Đây là một phép lạ lớn lao. Thứ hai, đây là hình ảnh nói tới sự vô ơn đang thịnh hành. Chín trong 10 người có lẽ sẽ quên từng phước hạnh mà họ từng nhận lãnh. Thứ ba, đây là hình ảnh nói tới ân điển không  ai ngờ. Tấm lòng biết ơn thường nhảy nhót ở chỗ mà bạn ít ngờ tới.

IV. Một thắc mắc rất thấm thía

            Giờ đây, chúng ta khám phá ra Chúa Jêsus đã nói gì về mọi sự nầy:
            “Đức Chúa Jêsus bèn cất tiếng phán rằng: Không phải mười người đều được sạch cả sao? Còn chín người kia ở đâu? Chỉ có người ngoại quốc nầy trở lại ngợi khen Đức Chúa Trời ư! Ngài lại phán rằng: Đứng dậy đi; đức tin ngươi đã cứu ngươi (17-19).
            Chúa Jêsus đưa ra ba câu hỏi.
1. Không phải mười người đều được sạch cả sao? Phải.
2. Còn chín người kia ở đâu?? Đi mất rồi.
3. Chỉ có người ngoại quốc nầy trở lại ngợi khen Đức Chúa Trời ư? Không ai hết.
            Nếu bạn nghe cho kỹ, bạn có thể nghe thấy nổi kinh ngạc, sốc và hầu hết đều là buồn rầu. Chúa Jêsus muốn biết về mấy người kia. Họ ở đâu chứ? Bộ họ không được lành sao? Tại sao họ không quay trở lại rồi nói “Cảm ơn Ngài" chứ?
            Đây là một thắc mắc rất hay. Tại sao họ không quay trở lại?
            + Có lẽ họ đang trong cơn vội vã đến gặp thầy tế lễ.
            + Có lẽ họ nghĩ Chúa Jêsus đã đi nơi khác rồi.
            + Có lẽ họ nghĩ Chúa Jêsus vốn biết họ rất biết ơn rồi.
            + Có lẽ họ quá bận rộn.
            Vậy, giờ đây họ ở đâu chứ?
            Bỏ đi với các ơn phước của họ.
            Bỏ đi để gặp thầy tế lễ.
            Bỏ đi để gặp gỡ gia đình của họ.
            Bỏ đi với chẳng một lời cảm tạ Chúa Jêsus.
            Đây là một sự thực đáng kinh ngạc. Bạn nhìn vào 10 người phung nầy và họ rất giống nhau.
            + Hết thảy đều mắc bịnh phung.
            + Hết thảy đều là hạng người bị xã hội ruồng bỏ.
            + Hết thảy đều quyết định làm một việc gì đó về sự ấy.
            + Hết thảy đều nghe nói về Chúa Jêsus và tin Ngài có thể cứu họ.
            + Hết thảy đều kêu nài nơi Ngài.
            + Hết thảy đều vâng theo Lời của Ngài.
            + Hết thảy đều được chữa lành.
            Ở bề ngoài họ giống nhau. Tuy nhiên, có một sự khác biệt.
            Một người quay trở lại. Chín người kia tiếp tục đi.
            Một người tỏ lòng biết ơn. Chín người kia thì không.
            Một người tìm được ơn tha thứ. Chín người kia thì không.
            Một người nhận được hai phép lạ. Chín người kia nhận được một phép lạ.
            Hết thảy mười người đều được chữa lành. Đấy là một phép lạ. Nhưng người Samari đã được chữa lành và được tha thứ. Đó là hai phép lạ. Và đấy là điều Chúa Jêsus muốn nói khi Ngài phán: “Đức tin ngươi đã cứu ngươi”.

Giống như con trẻ tại bàn tiệc

            Thắc mắc còn lại: Còn chín người kia ở đâu? Câu trả lời là, họ đã nhận được điều họ mong muốn và đã bỏ đi rồi. Chúa Jêsus đã làm một phép lạ cực kỳ cho họ và họ nói: “Cảm ơn Chúa, tôi có thể nhận được phép lạ ấy từ đây”. Họ sống giống như trẻ con ăn cho no bụng rồi chạy đi khỏi bàn ăn mà chẳng có một lời cảm ơn. “Chúng ta no rồi. Chúng ta hãy ra ngoài kia chơi đi”. Tôi nghĩ đây là tội lỗi đặc biệt của hạng người lớn lên trong nhà thờ. Chúng ta chẳng nhạy cảm gì nhiều đối với những gì Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta. Thường thì chúng ta không yêu mến Chúa nhiều hay cảm thấy biết ơn vì các ơn phước của Ngài.
            Chúng ta sẽ nói điều đó trong hai cách khác nhau:
1. Biết ơn là nghĩa vụ cao nhất và là phẩm hạnh tối thượng của người tin Chúa, là dòng suối từ đó mọi ơn phước khác tuôn tràn ra.
2. Vô ơn là căn bịnh phung của linh hồn. Sự vô ơn gậm nhấm từ bên trong, hủy diệt hạnh phúc của chúng ta, làm què quặt sự vui mừng của chúng ta, làm cho lòng thương xót của chúng ta bị teo đi, làm tê đi sự ngợi khen của chúng ta và làm cho chúng ta liệt đi trước mọi ơn phước của Đức Chúa Trời.

Tony Snow

            Nhiều người trong chúng ta đã xúc động bởi các tin tức cho biết chứng ung thư ruột kết của Tony Snow đã quay trở lại. Viết về sự kiện nầy mới đây, Cal Thomas đã bắt đầu bài viết của mình (Tôi quen với  Tony Snow) theo cách nầy:
            Chẳng có ai là không thích Tony Snow. Bởi sự hoan hô, người ta biết ông là thư ký báo chí ở Nhà Trắng là người đứng đắn, tử tế và khích lệ mà họ đã từng gặp.
            Trao đổi với nhóm nhà báo vào tháng Giêng, Snow đã nói với họ: “Trong nhiều cách thức, bị ung thư là việc tốt nhứt từng xảy ra cho tôi, còn lấy vợ thì khác hơn”. Bạn tự hỏi điều chi đã khiến cho một người nói năng như thế về một chứng bịnh có thể lấy mạng của mình. Chứng ung thư ruột kết giết hàng ngàn người mỗi năm. Làm sao chứng bịnh ấy lại trở thành một loại phước hạnh cho được chứ? Câu trả lời đại loại là như thế nầy đây. Bản thân chứng ung thư chẳng phải là ơn phước chi hết, nhưng Đức Chúa Trời thường sử dụng nó như một phương tiện để dạy dỗ chúng ta những việc mà chúng ta chưa hề biết và để đào sâu đức tin của chúng ta. Bản thân căn bịnh là một phần của cái giá mà chúng ta chi trả cho việc sống trong một thế giới sa ngã, nhưng qua chứng ung thư chúng ta có thể khám phá ra điều chi là vấn đề quan trọng nhất trong cuộc sống. Tony Snow thấy rằng những lời cầu xin của ông bắt đầu thay đổi. Ông bắt đầu học biết đem đời sống  mình phục theo Đức Chúa Trời:
            Không những nói: ‘Lạy Chúa, việc ấy nằm trong tay Ngài’ nhưng việc hiểu biết bất cứ điều chi có thể đến sau đó là đừng cố gắng thúc đẩy Đức Chúa Trời làm điều chi đó cho bạn, trừ phi bỉu môi trước một số ngăn trở phân cách bạn với Đức Chúa Trời, “vì đối với mọi người trong chúng ta, chúng ta chỉ nhận được sự hư không mà thôi”.
            Giống như bao người khác đã khám phá, chứng ung thư của ông đã trở thành con đường cho một đức tin mới tìm được và là một việc mà ông đã không trông mong – ấy là sự vui mừng.
            Sau cuộc giải phẫu ung thư lần thứ nhứt của ông, Snow nói ông phải nằm lại trên giường và ông bắt đầu đọc Kinh thánh “học biết nhiều để cầu nguyện” và cầu xin Đức Chúa Trời “làm ơn kéo tôi cho càng gần, (là điều) phát triển một sự khao khát cũng là một hình thái vui mừng”.
            Từ chứng ung thư đến cầu nguyện theo Kinh thánh, đến khát khao sự vui mừng. Đây không phải là một con đường mà Tony Snow đã chọn lựa, song ông cũng nói rằng những gì ông đã khám phá đã tạo thành một chuyến hành trình đáng giá.
            Chúng ta trải qua cuộc sống nói: “Lạy Chúa, rốt lại Ngài đã làm gì cho tôi vậy?” Và Chúa đáp: “Nếu ngươi chỉ biết thôi”. Nhiều điều trong cuộc sống giúp bạn hình dung ra bạn không có thực quyền và ai mới có thực quyền.
            Ung thư đã làm việc ấy cho Tony Snow.
            Bịnh phung đã làm việc ấy cho người Samari.
            Một người được chữa lành – và dâng sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời.
            Một người vẫn còn đánh trận với bịnh tật mình – và dâng sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.
            Từng việc tốt lành trong đời sống Cơ đốc nhân tuôn tràn ra từ dòng suối mạnh mẽ nầy. Khi tôi nhận ra sự nhân từ của Đức Chúa Trời — không phải là trừu tượng hay trong lý thuyết — mà thật riêng tư, đặc biệt đối với tôi … Không phải chung chung đâu, trừ ra những gì Đức Chúa Trời đã làm cho tôi!
            Thế rồi (và chỉ khi ấy) tôi được tự do bước đi, cầu nguyện, làm chứng lại.
            + Tôi không bị cưỡng chế.
            + Tôi không bị áp lực.
            + Khi sau cùng, chúng ta nhìn và thấy những gì Đức Chúa Trời đã làm …
            + Khi sau cùng, chúng ta đến mọi ơn phước của chúng ta rồi kể tên chúng từng cái một …
            + Khi sau cùng, chúng ta hiểu rõ từng sự nhân từ và sự ban cho trọn vẹn đó đến từ Cha sáng láng ở trên cao …
            + Khi sau cùng, chúng ta nhìn thấy rõ chính sự sống là một sự ban cho đến từ trên cao …
            + Khi chúng ta biết – thực sự biết rõ – mọi sự trong cuộc sống đều là một sự ban cho …
            Khi ấy, chúng ta bắt đầu ngợi khen,
            Khi ấy, chúng ta bắt đầu dâng hiến,
            Khi ấy, chúng ta bắt đầu ca hát,
            Khi ấy, chúng ta bắt đầu làm chứng,
            Khi ấy, chúng ta bắt đầu phục vụ,
            Khi ấy, chúng ta bắt đầu bước vào “sự sống  dư dật”.
            + Khi sau cùng, chúng ta học biết rằng chúng ta là những người phung khi chào đời …
            + Khi sau cùng, chúng ta nhìn thấy những gì Chúa Jêsus đã làm cho chúng ta …
            + Khi sau cùng, ân điển của Đức Chúa Trời bày tỏ ra để chúng ta có được bất cứ điều chi có giá trị…
            Chỉ khi ấy cuộc sống mới thực sự bắt đầu thay đổi!
            Ở thời điểm đó, những việc kỳ diệu bắt đầu xảy ra cho chúng ta:
            Cái gì là Nghĩa Vụ giờ đây là Đặc Ân.
            Cái gì là Luật Pháp giờ đây là Ân Điển.
            Cái gì bị Đòi Hỏi giờ đây là Tình Nguyện.
            Cái gì Bắt Buộc giờ đây là Tự Do.
            Cái gì là Cực Nhọc giờ đây là Vui Mừng.
            Cái gì bị xem là hiển nhiên giờ đây được dâng lên trong sự ngợi khen Đức Chúa Trời.
            Khi sau cùng, ân điển đầy dẫy chúng ta, khi ấy chúng ta chạy đi trong sự vui sướng!
            Mười người được chữa lành trong ngày ấy, nhưng chỉ có một người quay trở lại để dâng lên lời cảm tạ. Có phải bạn đang sống với chín người kia hay với một người nầy? Có quá nhiều người trong chúng ta xem ơn phước là hiển nhiên và than vãn về mọi nghĩa vụ. Nói như thế thì có giống như bạn chăng? Chớ để cho việc ấy xảy ra.
            Ngợi khen là một sự lựa chọn. Một tấm lòng biết ơn là một sự lựa chọn bạn đưa ra. Không một ai bị buộc vào thái độ cay đắng. Bạn chọn phương thức bạn sinh sống. Người nào quay trở lại dâng lời cảm tạ  không chọn quên những điều Chúa Jêsus đã làm cho người ấy. Bí quyết của một tấm lòng cảm tạ là một sự lựa chọn có ý thức không quên những gì Đức Chúa Trời đã làm cho bạn.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét