Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2013

Ngài Dạy Cách Có Quyền




ĐẤNG CỨU THẾ XUẤT HIỆN
NGÀI DẠY CÁCH CÓ QUYỀN
            Có nhiều câu Kinh thánh mô tả kinh nghiệm của những người chơi golf, kể cả những tiếng thở than nữa. Hãy xem: “họ vẫn học luôn mà không hề thông biết lẽ thật được —câu nầy chắc chắn áp dụng cho môn golf.
            Câu nói nầy chỉ ra rằng cuộc sống còn phức tạp hơn môn golf. Sự chú ý của chúng ta chao đảo từ ý tưởng nầy sang ý tưởng kia, từ việc mới mẻ nầy đến việc mới mẻ đến sau đó — vẫn học luôn, không hề được dạy dỗ. Ai có thể hướng dẫn chúng ta về điều chi là quan trọng trong cuộc sống chứ?
            Lời lẽ của Chúa Jêsus đã cung ứng giá trị cho nền văn minh Tây phương, nắn đúc các giá trị thậm chí của những kẻ chối bỏ Tin Lành, và cách mạng hoá đời sống của những ai biết đặt đức tin của họ nơi Ngài. Phần việc của chúng ta trong sứ điệp nầy là xem xét sự dạy quan trọng và rất kiên nhẫn của Chúa Jêsus.
            Trong các bài nghiên cứu trước đây, chúng ta đã nhìn vào sự giáng sinh của Đấng Christ và phần mở đầu chức  vụ công khai của Ngài. Trong sứ điệp nầy, chúng ta sẽ cung ứng sự chú ý đặc biệt không nhằm vào các hành động của Ngài mà vào những lời lẽ đã được thốt ra, sự dạy dỗ, của Chúa. Một lần nữa, như thường lệ là trường hợp trong loạt bài nầy, chúng ta chỉ có thể nhìn vào một phần nhỏ tư liệu dồi dào đang sẵn có cho chúng ta.
            Có hai câu nói của Chúa Jêsus sẽ hướng dẫn chúng ta. Thứ nhứt: “Ngài dạy dỗ họ nhiều điều bằng các thí dụ”. Thứ hai là khuôn mẫu bởi đó Ngài chỉnh đốn sự sai lầm: “Các ngươi có nghe điều đó . . . nhưng Ta phán cùng các ngươi”.
            Các thí dụ chỉ là những mẫu chuyện với các ngụ ý quan trọng. Chúng vạch ra kinh nghiệm thông thường của khán thính giả — làm ruộng, đi chợ, làm cha làm mẹ, v.v… Nói ngắn gọn, chúng ta sẽ xem xét một trong những thí dụ hay nhất của Chúa Jêsus, ấy là Người Samari Nhơn Lành. 
            Phạm trù dạy dỗ thứ hai liên quan đến sự thách thức của Chúa Jêsus về sự khôn ngoan thông thường có quan hệ với hạnh phúc của con người và những mục đích của Đức Chúa Trời. Trong trường hợp trực tiếp hoặc ám chỉ, Chúa Jêsus soi sáng khán thính giả của Ngài qua sự nghe của họ, làm sáng tỏ nó, và rồi bày ra lẽ thật. Khuôn mẫu nầy là bằng chứng đặc biệt trong Bài Giảng Trên Núi. Chúng ta cũng sẽ xem xét một số thẩm quyền của Chúa Jêsus qua sự dạy dỗ bài giảng mà ai cũng biết rõ nầy.
            Trở lại với các thí dụ, chúng ta hãy xem xét lý do của Chúa Jêsus khi dạy dỗ với tư thế nầy:
Mác 4:1-12: “Đức Chúa Jêsus lại khởi sự giảng dạy nơi bờ biển; có một đoàn dân đông lắm nhóm lại xung quanh Ngài, Ngài bước lên trong một chiếc thuyền và ngồi đó, còn cả đoàn dân thì ở trên đất nơi mé biển. Ngài lấy thí dụ dạy dỗ họ nhiều điều, và trong khi dạy, Ngài phán rằng: Hãy nghe. Có người gieo giống đi ra đặng gieo…Ngài lại phán rằng: Ai có tai mà nghe, hãy nghe. Khi Đức Chúa Jêsus ở một mình, những kẻ xung quanh Ngài cùng mười hai sứ đồ hỏi Ngài về các lời thí dụ. Ngài phán rằng: Sự mầu nhiệm của nước Đức Chúa Trời đã tỏ ra cho các ngươi; nhưng về phần người ngoài, thì dùng cách thí dụ để dạy mọi sự, hầu cho họ xem thì xem mà không thấy, nghe thì nghe mà không hiểu; e họ hối cải mà được tha tội chăng.
            Các thí dụ chỉ ra những thực tại không thấy được bằng mắt thường. Những hành động được mô tả trong một câu chuyện có tính cách thí du — thí dụ, một người gieo giống — thực sự đáng nói tới việc gì đó quan trọng hơn. Thí dụ đòi hỏi sự chú ý và thậm chí đòi hỏi sự giúp đỡđđể mở mắt người ta ra. Mọi sự trong cuộc sống, phần lớn những việc có giá trị ai cũng biết là không sẵn có ở bề mặt. Các môn đồ, họ tìm tòi nơi Chúa Jêsus để đạt được sự hiểu biết, là những người được lợi ích từ những gì họ đã nghe.
            Các thí dụ cũng che giấu những lẽ thật cao thượng đối với những kẻ bất chấp hay xem thường chúng. Không phải ai có lỗ tai cũng đều nghe cả đâu. Chúa Jêsus trưng dẫn một phân đoạn từ sách Êsai,  là một phần lời tố cáo về tình trạng thờ lạy hình tượng. Những bức tượng bằng đá không thể nghe bất cứ điều gì và những ai thờ lạy hình tượng đều giống như các đối tượng mà họ đang thờ lạy — không có khả năng lắng nghe. Các thí dụ giữ lại lẽ thật có giá trị (“nghe luôn mà không hề thông biết”) đối với những kẻ đã chọn xây khỏi Đức Chúa Trời mà hướng về những thần tượng do tay người ta làm ra.
            Sau cùng, vì thí dụ là một mẫu chuyện, nó rãi ảnh hưởng của nó rộng ra theo thời gian. Một nan đề trong bài toán hay một thắc mắc về luật pháp dẫn tới một câu trả lời, một kết luận, với chẳng một điều gì được mong đợi. Một câu chuyện còn nán lại và truyền cảm hứng, được ghi nhớ và được kể ra với chiều hướng mới khi phạm trù cuộc sống của một người thay đổi. Theo thời gian, một câu chuyện thuyết phục chúng ta về những việc mà chúng ta chưa hề gặp trước đây.
            Tôi vật vã với bịnh hen suyễn khi tôi còn nhỏ. Một mùa hè kia, khi tôi được 9 hay 10 tuổi, thời kỳ nầy quả là rất khó khăn. Tôi phải ở trong nhà nhiều ngày và có nhiều thời gian để đọc sách. Một quyển sách lôi cuốn tôi khi ấy và tôi hãy còn nhớ. Kontiki là câu chuyện nói tới một chuyến hải hành bởi sáu người dong buồm trên một chiếc bè trải đi từ Nam Mỹ đến Polynesia. Thor Heyerdahl đang thử nghiệm một lý thuyết về việc mở rộng dân số và đã quyết định sử dụng kỷ thuật thời xưa (gỗ balsa làm bè, dây thừng, v.v…) kết thành một cái bè, có tên là ‘Kontiki’, đã thực hiện thành công chuyến hải hành dài 4000 dặm.
            Nhiều hiểm nguy và bất ổn — cá mập, giông bão — vây quanh. Chỉ trích, phê phán thì nhiều vô số. Song nhóm sáu người bạn nầy cứ tiến về phía trước và đã thành công.
            Một số bài học đã chìm theo thời gian khi câu chuyện nầy hãy còn bám víu trong lý trí: 1) Những vị được gọi là chuyên gia không biết hết mọi sự. Đôi khi, cái gì tốt thì bị chế nhạo. 2) Các thủy thủ cần có và tin tưởng nhau. Tham dự vào chuyến phiêu lưu dẫn tới tình bạn sâu sắc.
            Tôi không biết gì về Kinh thánh hay các mục đích của Đức Chúa Trời mãi cho đến nhiều năm về sau. Nhưng các bài học và nhận thức mà quyển sách của Heyerdahl đã giúp tôi nắm bắt truyện tích Tin Lành và giúp sửa soạn tin theo Tin Lành ấy.
            Trước khi ông là một Cơ đốc nhân, C.S. Lewis là một nhà vô thần, ông yêu mến các huyền thoại đời xưa. Ông có được đức tin rằng mọi thứ kỳ diệu kia đã kéo ông đến với những mẫu chuyện xa xưa nói tới ao ước của con người tìm thấy có trong Đấng Christ — với sự diệu kỳ, không những chúng quá hay mà chúng còn là sự thực nữa. Những mẫu chuyện có tính cách thí dụ của Chúa Jêsus hoàn tất một việc tương tự — nắn đúc suy tưởng của chúng ta thành một con đường cho niềm tin và kỷ luật.
            Với những điều nầy trong trí, chúng ta hãy chú ý đến một trong các thí dụ hay nhất của Chúa Jêsus — người Samari Nhơn Lành.
Luca 10:25-37: Bấy giờ, một thầy dạy luật đứng dậy hỏi đặng thử Đức Chúa Jêsus rằng: Thưa thầy, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời? Ngài phán rằng: Trong luật pháp có chép điều gì? Ngươi đọc gì trong đó? Thưa rằng: Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí mà kính mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi; và yêu người lân cận như mình. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ngươi đáp phải lắm; hãy làm điều đó, thì được sống. Song thầy ấy muốn xưng mình là công bình, nên thưa cùng Đức Chúa Jêsus rằng: Ai là người lân cận tôi? Đức Chúa Jêsus lại cất tiếng phán rằng: Có một người từ thành Giê-ru-sa-lem xuống thành Giê-ri-cô, lâm vào kẻ cướp, nó giựt lột hết, đánh cho mình mẩy bị thương rồi đi, để người đó nửa sống nửa chết”.
            Quan sát: 1) Người bị cướp giựt, bị lột sạch hết; ông ta bị đánh bất tỉnh, vì lẽ đó chẳng có ai nhận ra ông ta nữa. Chúng ta không biết ông ta giàu hay nghèo, người Do thái hay dân Ngoại, theo bề ngoài của ông ta lúc bấy giờ. Thật là khó thực thi ‘bổn phận của một người’ nếu không biết áp dụng luật lệ nào. 2) Những du khách đi ngang qua chẳng có cách nào nhìn biết nguy hiểm có còn đâu đó hay không!?! Bối cảnh đã được trình bày với đầy ẩn số.
            “Vả, gặp một thầy tế lễ đi xuống đường đó, thấy người ấy, thì đi qua khỏi. Lại có một người Lê-vi cũng đến nơi, lại gần, thấy, rồi đi qua khỏi. Song có một người Sa-ma-ri đi đường, đến gần người đó, ngó thấy thì động lòng thương; bèn áp lại, lấy dầu và rượu xức chỗ bị thương, rồi rịt lại; đoạn, cho cỡi con vật mình đem đến nhà quán, mà săn sóc cho. Đến bữa sau, lấy hai đơ-ni-ê đưa cho chủ quán, dặn rằng: Hãy săn sóc người nầy, nếu tốn hơn nữa, khi tôi trở về sẽ trả. Trong ba người đó, ngươi tưởng ai là lân cận với kẻ bị cướp? Thầy dạy luật thưa rằng: Ấy là người đã lấy lòng thương xót đãi người. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, làm theo như vậy”.
            Một câu chuyện thực sự bất ngờ. Những người Samari bị xem khinh bởi ‘người Do thái công bình’, và bị tránh né như nguồn ô nhiễm về mặt đạo đức. Thật là hay khi Chúa Jêsus dùng một người Samari làm thí dụ điển hình trong câu chuyện nầy, và tính cách chăm sóc dịu dàng của Samari quả là đáng kinh ngạc. Thầy tế lễ và người Lêvi cũng không phải là hạng công dân bình thường — được xem là cấp lãnh đạo giữa vòng dân sự của Đức Chúa Trời, vì vậy chúng ta thấy họ thất bại không hành động để rồi phải chịu rắc rối. Giả sử các giới chức tôn giáo trong thành Giêricô giữ họ không nhìn thấy điều chi là vấn đề đối với Đức Chúa Trời.
            Nổ lực hạn chế tình yêu thương của chuyên gia luật pháp dẫn tới một câu chuyện đầy dẫy với nhiều căng thẳng: đau khổ và liều lĩnh, bổn phận tôn giáo so với nhu cần phải thương xót, một người Samari là tôi tớ của Đức Chúa Trời. Ai là người lân cận chứ? Trong câu 37, chúng ta đọc: ‘Người động lòng thương xót’ (thật là khó khăn cho vị chuyên gia luật pháp thốt ra lớn tiếng: ‘người Samari’). Và Chúa Jêsus kêu gọi hết thảy những ai nghe câu chuyện nầy hãy đi và làm theo như vậy.
            Chúng ta phải chú ý, mọi vấn đề nơi trọng tâm thí dụ nầy nổi bật lên giữa vòng những lý do mà hạng người vô tín đưa ra hay chối bỏ Tin Lành ngày hôm nay. Cơ đốc nhân bị gán cho sự giả hình — vì xem khinh ‘người Samari’ hiện đại  và vì thái độ không bằng lòng liều lĩnh vì cớ sự thương xót. Chúng ta xét mình rất giỏi theo ánh sáng nầy — có phải chúng ta ưa thích người Samari Nhơn Lành hay ưa thích thầy tế lễ và người Lêvi? Tấm lòng thương xót có được hình thành trong chúng ta không?
            Cho phép tôi cung ứng cho bạn một nhận định khác trước khi chúng ta bước vào một số câu Kinh thánh trích từ Bài Giảng Trên Núi. Phần giải thích của tôi về câu chuyện nầy rất là phổ thông. Suy tưởng đầu tiên mà hầu hết mọi người đều có, ấy là họ đang ở trong vai trò: một là người Samari hay thầy tế lễ hoặc thầy thông giáo, và họ là người đến gần kẻ bị đánh đập kia sau đó và sẽ chọn: một là người lân cận hay không phải là người lân cận. Đấy là câu hỏi khó mà chúng ta phải tự hỏi mình. Đấy là bản chất của sự giải thích nầy, nhưng có một cách nói rất xưa và tinh tế về câu chuyện nầy thay đổi các diễn viên và tôi nghĩ Chúa Jêsus có lẽ đã dự tính rằng câu chuyện nầy có thể bị thắc mắc và được đọc ở một cấp độ khác.
            Và cấp độ khác là đây: Chúng ta là nạn nhân, chớ không phải thầy tế lễ hay khách qua đường. Chúng ta là người đang hấp hối bên lề đường. Vai trò chúng ta đóng trong câu chuyện nầy là đang ở trên bờ vực mất mát hết mọi sự. Mọi sự đã bị tước hết khỏi chúng ta; chính cuộc sống của chúng ta gần như bị mất hết. Người Samari là Đấng Christ, Ngài là Đấng đến và cứu kẻ bị hấp hối kia. Ngài là một người ngoài cuộc, Ngài bị mọi người khác xem khinh. Không một ai muốn làm gì với Ngài Ngài đến để cứu hạng người không thể tự cứu mình và thể chế tôn giáo hoàn toàn khác hơn Đấng hiện hữu ở trong lòng. Và đây là một câu chuyện nói tới Đấng Cứu Thế, Ngài đã đến để tìm và cứu những ai thống hối và có cần.
            Đây là một câu chuyện đơn giản và tôi khởi sự tự hỏi mình nhiều câu hỏi về cách tôi nhận định bản thân và cách tôi nhìn xem ơn thương xót của Chúa. Tôi xem xét tình trạng nhu cần của tôi như thế nào và Ngài đã ban cho bao nhiêu? Khi làm như vậy, Ngài khác biệt như thế nào? Câu chuyện nầy đối diện với chúng ta còn chi khác nữa không, và nó làm thay đổi cái nhìn của chúng ta ra sao?
            Ngài dạy dỗ họ nhiều điều bằng các thí dụ. Nguyện chúng ta có lỗ tai để mà nghe.
            Chúng ta giờ đây đi từ khuôn khổ của Chúa thách thức sự khôn ngoan thông thường. Bài Giảng Trên Núi là một sự đối ngược với thứ tôn giáo không đúng. Nó thách thức thứ tôn giáo giả kia đừng mở rộng tình trạng thờ lạy hình tượng, sự giả hình, đừng bất tuân cứng cổ nữa. Nó vạch trần những điều dối giả thuộc đời nầy được xem là sự khôn ngoan.
Mathiơ 5:1-3:Đức Chúa Jêsus xem thấy đoàn dân đông, bèn lên núi kia; khi Ngài đã ngồi, thì các môn đồ đến gần. Ngài bèn mở miệng mà truyền dạy rằng: Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!
            Thách thức của Chúa Jêsus trước lối suy nghĩ quen thuộc khởi sự ngay ở phần mở đầu. Tình trạng được phước — ứng nghiệm thực, cuộc sống sung mãn — không đến từ sự tích lũy mà đến từ chỗ trống không. Ý kiến của nhiều người khác, đánh giá các thành tựu, một sự đánh bóng bản thân và sự chất chứa các thứ vật chất chẳng kiếm được tầm quan trọng cho chúng ta. Tình trạng được phước được xây dựng trên việc công nhận với cấp độ sâu sắc nhất chúng ta là bất toàn và chúng ta không thể làm gì để thay đổi chính mình.
            Và Chúa Jêsus tiếp tục rao giảng, tiếp tục tìm kiếm giá trị đời đời ở chỗ thế gian lo sợ và tránh né: khóc lóc, nhu mì, làm sự hoà bình, bắt bớ. Các tư vấn của chúng ta đã nói dối chúng ta. Những gì chúng ta đã được truyền dạy phải bị chối bỏ để có được sự khôn ngoan sâu sắc hơn. Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn thí dụ nói tới những sự đầu tư.
Mathiơ 6:19-21: Các ngươi chớ chứa của cải ở dưới đất, là nơi có sâu mối, ten rét làm hư, và kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy; nhưng phải chứa của cải ở trên trời, là nơi chẳng có sâu mối, ten rét làm hư, cũng chẳng có kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy. Vì chưng của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó”.
            Mọi hành động của chúng ta trong hiện tại tác động tương lai của chúng ta, điều nầy không thể tránh được. Nhưng có phải chúng ta suy nghĩ sâu xa đủ chưa? Có phải chúng ta tìm cách cung ứng cho một tương lai gần, thuộc về đời nầy (tương lai đó vốn bất ổn) hay có phải chúng ta công nhận rằng chúng ta được dựng nên là cho cõi đời đời?
            Trộm cướp, sâu mối, ten rét đánh dấu sự sụp đổ, thảm hoạ thiên nhiên, hạng người cuồng dại với các thứ vũ khí nguy hiểm, và nhiều yếu tố khác khiến cho hàng hoá của thế giới nầy thành một nguồn không an  toàn về mặt an ninh. Và chúng ta có một sự lựa chọn tốt hơn. Chúng ta có thể chất chứa của cải ở trên trời. Nhưng nói như thế thì có nghĩa gì chứ? Thứ nhứt, chúng ta có thể đánh giá các mối quan hệ, đối xử với tha nhân quan trọng hơn là bản thân mình. Chúng ta có thể hiệp với các anh chị em trong cuộc phiêu lưu của vương quốc và các hành động phục vụ. Những sự lựa chọn nầy dẫn tới tình bạn sâu đậm sẽ được thưởng thức cho đến đời đời.
            Thứ hai, bản chất của chúng ta, được nắn đúc bởi các quyết định trong lúc bây giờ, sẽ còn mãi cho đến đời đời. Khi chúng ta phục theo Đức Thánh Linh và chọn sống biết thương xót, hay rời rộng hoặc can đảm và rồi làm theo như thế lần thứ hai và thứ ba, chúng ta thấy mình được thay đổi tận cốt lõi. Chúng ta trở thành một người mới — tôi đã bị mù giờ tôi thấy và chúng ta đem theo bổn tánh mới của mình vào trong cõi đời đời.
            Hãy xem xét Jean Valjean trong phim Les Miserables [Những Người Khốn Khổ]. Các đáp ứng của ông đối với tình yêu và sự chịu khổ tạo ra một tấm lòng thật đáng nể. Kẻ nghịch ông là Javert, cũng được nắn đúc bởi những sự lựa chọn của ông ta — đã trở thành một người cứng cỏi không thể xuyên thủng được. Chúng ta có thể chất chứa của cải ở trên trời khi chúng ta xem trọng về tính kỷ luật, để cho Chúa Jêsus khiến cho chúng ta ra giống như Ngài thêm. 
            Sau cùng, có lẽ rõ ràng nhất, thờ lạy là đời đời. Sự ngợi khen dâng lên Đức Chúa Trời vang dội mãi cho đến đời đời. Tôn thờ không bao giờ phai nhạt. Khi chúng ta ăn nuốt Kinh thánh, chúng ta nhận được sự khôn ngoan đời đời. Chọn lấy sự thờ phượng là vinh hiển trong giây lát và là một hành động chất chứa của cải ở trên trời.
            Bài Giảng Trên Núi kết thúc theo cách nầy:
Mathiơ 7:24-29: “Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên hòn đá. Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy; song không sập, vì đã cất trên đá. Kẻ nào nghe lời ta phán đây, mà không làm theo, khác nào như người dại cất nhà mình trên đất cát. Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy, thì bị sập, hư hại rất nhiều. Vả, khi Đức Chúa Jêsus vừa phán những lời ấy xong, đoàn dân lấy đạo Ngài làm lạ; vì Ngài dạy như là có quyền, chớ không giống các thầy thông giáo”.
            Giông bão là không thể tránh được. Cuộc sống sẽ thử nghiệm mọi người, người nào xây dựng trên vầng đá và trên cát. Nhưng các thử nghiệm của cuộc sống có những hậu quả khác biệt cho từng người khác nhau nương trên nền tảng của họ. Có hai đòi hỏi: lắng nghe và làm theo — một nền tảng vững chắc đòi hỏi cả hai.
            Chúng ta đã dành sự chú ý vào Chúa Jêsus là một vị giáo sư — là người nói ra các thí dụ và là người vạch trần sự dại dột của người thế gian. Tuy nhiên, chỉ có thông tin thôi thì chưa đủ. Có phải chúng ta chấp nhận sự thách thức phải ‘đưa vào thực tiễn’ sự Chúa Jêsus kêu gọi phải sống bởi đức tin, tin cậy nơi quyền phép của Đức Chúa Trời, và sẵn sàng để đón những cơn bão và nạn lụt?


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét